Thứ Năm, 14 tháng 8, 2025

PHƯƠNG TÂY TRÂN QUÝ GIÁ TRỊ PHẬT GIÁO . TÂY BAN NHA SẼ XÂY DỰNG KHU PHỨC HỢP PHẬT GIÁO, CÓ TƯỢNG PHẬT LỚN NHẤT ÂU CHÂU.

 

(España acogerá al Buda más grande de Europa )  

 Mô hình dự án do Lumbini Garden Foundation cung cấp.

Một khu phức hợp Phật giáo độc đáo sẽ được xây dựng tại thành phố Cáceres của Tây Ban Nha. Xung quanh tác phẩm điêu khắc của một vị Phật dài hơn 40 mét, sẽ được dựng lên một đại bảo tháp hòa bình, các phòng thiền , một thính phòng, một tu viện có chỗ cho hai mươi nhà sư, không gian giải trí cảnh quan rộng lớn, văn phòng đại diện của các quốc gia Phật giáo chính, và một trung tâm đại học liên kết với các trường đại học Phật giáo khác nhau để tạo điều kiện tiếp xúc giữa sinh viên từ châu Á và phương Tây.

Dự án, được công bố vào tháng 1 năm 2020 vừa qua tại Hội chợ Du lịch Quốc tế Madrid (FITUR), vẫn tiếp tục phát triển xây dựng theo kế hoạch.

Vào ngày 17 tháng 8 năm 2020, trong một phiên họp bất thường, Hội đồng thành phố Cáceres đã phê chuẩn việc kết nghĩa với thành phố Lumbini, Nepal, nơi được công nhận là nơi sinh của Đức Phật, để thúc đẩy việc xây dựng quần thể Phật giáo này. Điều này đã được bổ sung vào thông báo ngày hôm trước, trong đó Hội đồng thành phố Cáceres đã phê duyệt việc chuyển 101 ha đất để làm khu vực bao quanh công trình xây dựng độc đáo này. Khu vực được giao là một trang trại thành phố trên Cerro Arropez,

NguỒn: https://tinyurl.com/y4l9fvbt


Thị trưởng muốn xây tượng Phật ngồi lớn nhất thế giới ở Cáceres, nhà nước cấp đất .

https://tinyurl.com/j2e6dkn3

TƯỢNG PHẬT KHỔNG LỒ Ở BRAZIL. 

(Lớn hơn tượng Chúa Cứu Thế ở Rio de Janeiro, tượng Phật khổng lồ chính thức được khánh thành tại ES  )

Tượng Phật khổng lồ tại Thiền viện Phật giáo Ibiraçu, phía Bắc Espírito Santo Ba Tây, đã được khánh thành vào thứ Bảy tuần này (28). Quý khách có thể đến thăm bất cứ lúc nào trong ngày và hoàn toàn miễn phí.

Cấu trúc làm bằng sắt, thép và bê tông nặng 350 tấn và cao 35 mét. Đây là bức tượng Phật lớn thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau tượng Phật Lạc Sơn, ở Trung Quốc, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (Unesco) coi là Di sản Thế giới. 

Nguồn: https://tinyurl.com/2p82827k

Chienslambao.blogspot.com


Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

TẠI SAO NGƯỜI VÔ THẦN VẪN SỐNG CÓ ĐẠO ĐỨC?

 Nhiều người hữu thần cho rằng những người vô thần hẳn phải chìm trong nỗi buồn u uất, bởi họ không hy vọng vào một kiếp sống sau khi chết hay tin vào một đấng siêu nhiên có thể lắng nghe và đáp lời cầu nguyện trong cuộc đời này. Nhưng đó là một nhận thức sai lầm. Những lời khẳng định sau cho thấy người vô thần có vô vàn lý do để sống hạnh phúc và trọn vẹn :

1. Tôi không lãng phí thời gian, công sức hay tiền bạc để chuẩn bị cho một kiếp sau chỉ tồn tại trong giả thuyết. Tôi sống cho hiện tại, trân trọng từng khoảnh khắc thực tại.

2. Tôi nỗ lực trở thành một người tử tế, không vì mong đợi phần thưởng hay lo sợ bị trừng phạt. Lòng tốt của tôi xuất phát từ trái tim, không từ kỳ vọng hay nỗi sợ hãi.

3. Tôi sống dựa trên sự thật, không phải những lời tuyên bố vô căn cứ. Tôi đi theo con đường mà bằng chứng dẫn dắt, với tâm trí rộng mở và chân thành.

4. Tôi không cần phải vắt óc biện minh để bám víu vào những điều tôi muốn tin nhưng không có thật. Tâm hồn tôi tự do, không bị trói buộc bởi những ảo tưởng.

5. Tôi không cần phí thời gian với những biến thể của trò "cá cược Pascal", bởi tôi đứng trên vai những bộ óc vĩ đại đã vạch trần sự thiếu đạo đức của lập luận này. Tôi chọn sự rõ ràng của lý trí thay vì những trò chơi tâm lý.

6. Tôi có thể nhìn những người tôn giáo, bất kể niềm tin của họ mà không cần phải lo lắng về những hậu quả khắc nghiệt ở kiếp sau. Tâm trí tôi tự do khỏi nỗi sợ hãi về những điều không tồn tại.

7. Tôi có thể hoàn toàn đón nhận và kinh ngạc trước khoa học mà không phải lo ngại nó sẽ làm lung lay niềm tin của mình. Khoa học là ánh sáng soi đường, không phải mối đe dọa.

8. Tôi tự do khám phá những khái niệm triết học và đạo đức mới mẻ mà không phải bận tâm liệu chúng có mâu thuẫn với một cuốn sách cổ xưa nào đó. Tâm trí tôi là cánh cửa mở ra những chân trời mới.

9.  Tôi tự do nhìn nhận những người thuộc cộng đồng LGBTQA+ là hoàn toàn bình đẳng, đáng được tôn trọng và ngưỡng mộ.  Tình yêu và sự đa dạng của con người là điều tôi trân trọng.

10. Tôi công nhận quyền tự chủ của phụ nữ đối với  và ủng hộ quyền được lựa chọn cá nhân của họ như phá thai. Tôi đứng về phía công lý và sự tự do cá nhân.

Một thế giới bị tê liệt bởi thực tế của tôn giáo (điều mà tất cả mọi người đều không thể tránh khỏi) sẽ không cho phép những lời khẳng định này bởi vì chúng ta sẽ sống dưới một chế độ độc tài của thần thánh , biến con người thành những tù nhân trí tuệ. Thật đúng đắn khi nói rằng 'cảm ơn Chúa vì không có Chúa'.

St

Chienslambao.blogspot.com





NHÂN DUYÊN GÌ MÀ PÉ MARIA ĐƯỢC LÀM NỮ VƯƠNG THIÊN QUỐC?

Maria kiếp trước nhờ gieo nhân gì mà kiếp này đã có chồng, nhưng thời tới không cản được, quả lành sinh ra trái ngọt được THIÊN CHÚA sủng ái chọn làm vợ sinh con trai nối dòng, đc phong làm chính thất nữ vương thiên đàng, cai quản toàn bộ hậu cung trên thiên quốc hay quá vại?😁

Chienslambao.blogspot.com



Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

VỢ CỦA CAIN LÀ CON CÁI NHÀ AI, TÊN GÌ? VẪN CÒN LÀ MỘT BÍ ẨN CHƯA CÓ LỜI GIẢI ĐÁP

 

Kinh thánh sáng thế ký: Cain sau khi g iết chết em trai của mình là Abel có nhiều khả năng sẽ lấy mẹ ruột mình của là bà Eva để sinh thêm con cái nối dòng cho nó lẹ, giả thuyết thứ hai nếu Cain lấy những đứa em gái ruột của mình làm vợ thì nó phải đợi Eva sinh ra em gái, sau đó phải kiên nhẫn đợi em gái đến tuổi trưởng thành gần hai chục năm sau mới chén em gái được.😂

Chienslambao.blogspot.com









Thứ Hai, 11 tháng 8, 2025

Hỏi: Thiên Chúa có tạo dựng ra vũ trụ không ?

 

Trả lời: Hoàn toàn không. Chúa thậm chí còn không có thật thì lấy đâu mà tạo ra vũ trụ?

Mời đọc (bản lược dịch):

(Nguồn tham khảo :

https://science.howstuffworks.com/dictionary/astronomy-terms/big-bang-theory.htm

https://science.howstuffworks.com/light13.htm

https://science.howstuffworks.com/dictionary/astronomy-terms/big-bang-theory.htm)

Quyển Sáng thế ký (Chương 1, đoạn 1-14 ) phán rằng, chúa tạo ra vũ trụ trong 6 ngày. Ngày thứ nhất “ngài” tạo ra ánh sáng, phân tách ánh sáng ra khỏi bóng đêm, gọi ánh sáng là ngày, bóng đêm là đêm. Xong rồi ngày thứ 2 …, rồi ngày thứ 3 … Và rồi mãi đến tận ngày thứ … tư “ngài” lại tiếp tục tạo ra … ánh sáng nữa (!?): 

“Chúa phán: Hãy có ánh sáng trong mênh mông biển trời để tách ngày ra khỏi đêm. Và hãy để cho những ánh sáng ấy dùng làm biểu hiệu (signs) và dùng để chỉ mùa màng cũng như các năm, và hãy để cho những ánh sáng ấy là ánh sáng trong mênh mông biển trời hòng đem đến ánh sáng trên trái đất. Rồi chúa tạo ra hai ánh sáng lớn - ánh sáng lớn hơn thống trị ngày, ánh sáng nhỏ hơn thống trị ban đêm - và (ngài cũng tạo ra) các vì tinh tú” (!?).

Các bạn hãy nói thật lòng đi. Các bạn có thật sự tin cách mà chúa của các bạn tạo ra ánh sáng, ngày và đêm không? Như tôi đã tranh luận ở lý do số 2 về sự tồn tại của chúa, rằng chúa không thể tự mình mà có được. Vậy thì, khi Kinh “thánh” kể “Chúa phán …”, thì chúa ở đây là chúa nào? Là ai? Là tác nhân nào? Và kể cả chúa của các bạn có thật đi nữa thì việc “ngài” tạo ra ánh sáng bằng cách “Hãy có ánh sáng …” thì lập tức có ánh sáng nghe có lọt tai không? Các bạn có thật sự tin rằng ánh sáng là do chúa tạo ra không? Các bạn có thật sự tin rằng ánh sáng là cái mặt nạ được đắp vào gương mặt của các bạn không? Khi cần thì các bạn lột cái mặt nạ ra khỏi mặt các bạn ? Lẽ nào ánh sáng do chúa của các bạn tạo ra là một hợp chất trắng và đen sao? Chúa của bạn giỏi thật! “Ngài” thậm chí có thể tách “ngày” ra khỏi “đêm”, y như lột mặt nạ vậy!

Thật không may cho các bạn là con chiên, vì rằng nguồn gốc của ánh sáng không phải là … chúa! Các nhà khoa học ngày nay đã công nhận sự tồn tại của của các phô - tông (photons -lượng tử ánh sáng) và hiện tượng sóng hạt kỳ lạ. Những gì họ vẫn còn tranh luận, là khía cạnh hiện sinh hơn của các sự vật, tỷ như ánh sáng bắt nguồn từ nơi đầu tiên ở đâu. Để trả lời câu hỏi này, các nhà khoa học hướng sự chú ý vào Vụ nổ Lớn (The Big Bang) và một vài khoảnh khắc tiếp theo.

Có thể các bạn chiên cũng biết, là Vụ nổ Lớn chính là sự kiện khởi phát sự sống, và chính nó đã tạo ra vũ trụ. (Tham khảo thêm về Vụ nổ Lớn: How the Big Bang Theory Works). Một cách ngắn gọn, cách nay khoảng 15 tỷ năm, tất cả mọi loại vật chất và năng lượng đều bị dồn vào một khu vực nhỏ có tên là điểm kỳ dị (singularity). Trong một khoảnh khắc, điểm vật chất siêu cô đặc đơn lẻ này bắt đầu nở ra với một tốc độ nhanh khủng khiếp. Khi vũ trụ sơ sinh giãn nở, nó bắt đầu nguội đi và trở nên bớt cô đặc. Điều này dẫn đến việc các hạt phân tử bền vững và các lượng tử ánh sáng hình thành. Dựa vào thuyết này, vũ trụ có thể đã diễn ra như sau:

3.1.1. Ngay sau Tiếng nổ Lớn, hiện tượng điện từ (electromagnetism) không tồn tại như một lực độc lập. Thay vào đó, nó được kết hợp với lực hạt nhân yếu còn lại. 

3.1.2. Các hạt phân tử cơ bản B và W (bosoms - bao gồm các hạt ánh sáng [quang tử - photon], hạt truyền lực mạnh [gluon] và các hạt lực khác) cũng tồn tại vào thời điểm này.

3.1.3. Khi vũ trụ mới chỉ được 0.00000000001 giây tuổi (0.00000000001 seconds old), nó đã đủ nguội để hiện tượng điện từ tách ra khỏi lực hạt nhân yếu còn lại và để các hạt phân tử cơ bản B và W kết hợp với nhau hình thành nên các hạt ánh sáng (photons). Các hạt ánh sáng tự do hoà vào các hạt quắc (quarks)  - các hạt hạ phân tử mang điện tích phân số - tức là các khối sinh ra vật chất nhỏ nhất.

3.1.4. Khi vũ trụ được 0.00001 giây tuổi ( 0.00001seconds old), các hạt hạ phân tử kết hợp với nhau để tạo thành các hạt prô-tông (proton - hạt hạ nguyên tử xảy ra ở trung tâm hạt nguyên tử - tức đơn vị cơ bản của thành phần hoá học) và nơ-trông (neutron - hạt hạ phân tử có khối lượng tương đương với hạt prô-tông, nhưng không chứa điện tích, có mặt ở tất cả các trung tâm của các hạt nguyên tử, trừ trung tâm của hi-drô (hydro - nguyên tố hoá học đầu tiên và nhẹ nhất) thông thường.

3.1.5. Khi vũ trụ được 0,01 giây tuổi, các hạt prô-tông và nơ-trông kết hợp thành các hạt nguyên tử.

3.1.6. Cuối cùng, khi vũ trụ ở độ tuổi “mẫu giáo”, tức khoảng 380.000 tuổi, các hạt ánh sáng (photons) tự phá vỡ và ánh sáng tràn ngập khắp các vực sâu tối tăm của không gian.

Ánh sáng này cuối cùng mờ tối dần và đỏ rực cho đến khi lò lửa hạt nhân trong các vì sao tiếp tục và bắt đầu tạo ra ánh sáng mới. Mặt trời của chúng ta sáng lên cách đây khoảng 4.6 tỷ năm, toả ra các hạt ánh sáng phù đầy thái dương hệ. Những hạt ánh sáng này đã và đang không ngừng chảy về hành tinh xanh khiêm tốn của chúng ta kể từ đó.

Các bạn chiên, vị đã nhiễm chúa quá nặng, nên khi đọc thuyết này các bạn có thể nhoẻn miệng cười, trề môi, thậm chỉ rủa sả. Dù vậy, so với “thuyết ánh sáng của chúa” của các bạn, thuyết Tiếng nổ Lớn nghe dễ lọt tai hơn, đúng không? Có thể bạn vẫn sẽ trề môi. Nhưng không sao. Đó là quyền của bạn. Dù bạn có tin thuyết Tiếng nổ Lớn hay không thì nó vẫn đã và sẽ được cộng đồng khoa học và những người trân quý chân lý trên toàn thế giới công nhận.   

St
Chienslambao.blogspot.com









Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

TẠI SAO NHỮNG NGƯỜI VÔ THẦN SỐNG CÓ ĐẠO ĐỨC?

 Một học trò của một giáo sĩ Do Thái , đã hỏi ông: "Tại sao Chúa lại tạo ra những người vô thần ?". Sau một hồi im lặng, cuối cùng vị giáo sĩ Do Thái đã trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng chân thành ,ông nói, "để dạy chúng ta bài học quan trọng nhất - bài học về lòng trắc ẩn đích thực. Con thấy đấy, khi một người vô thần làm việc từ thiện, thăm hỏi người bệnh, giúp đỡ người gặp khó khăn và chăm sóc thế giới, họ không làm vậy vì một giáo lý tôn giáo nào cả. Họ không tin rằng Chúa đã ra lệnh cho họ làm những việc này. Thực tế, họ hoàn toàn không tin vào Chúa, vì vậy hành động của họ dựa trên ý thức đạo đức của họ. Hãy nhìn vào lòng tốt mà họ dành cho người khác chỉ vì họ cảm thấy điều đó là đúng đắn. Khi ai đó tìm đến con để nhờ giúp đỡ, con đừng bao giờ nói 'Tôi sẽ cầu nguyện Chúa sẽ giúp bạn'. Thay vào đó, ngay lúc đó, con nên trở thành một người vô thần - hãy nghĩ rằng không có Chúa nào có thể giúp đỡ, và hãy nói 'Tôi sẽ giúp bạn'." — Martin Buber,

 "Truyện kể về người Hasidim"- Tales of the Hasidim

St

Chienslambao.blogspot.com





.

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

Sự Phát Triển Chậm Chạp Của Kitô Giáo Đã Phủ Nhận Các Phép Lạ

 

Kitô giáo phát triển chậm chạp trong ba thế kỷ đầu tiên không nhất quán với những tuyên bố về phép lạ, điều này cho thấy phép lạ đã không xảy ra.

Dưới đây là những gì chúng ta biết từ các bằng chứng lịch sử hạn chế cũng như các tuyên bố trong Kinh thánh:

• Chúa Jesus đã đi khắp đất nước và thực hiện phép lạ trước mặt mọi người trong nhiều năm.

• Ước tính khiêm tốn là ít nhất 7000-10000 người đã trực tiếp chứng kiến phép lạ - cho 5000 người ăn hai lần , 300 người chứng kiến Chúa Jesus phục sinh, các phép lạ trên núi (hàng trăm nếu không muốn nói là hàng nghìn người), chữa lành bệnh ở các ngôi làng nhỏ (ít nhất hàng chục người chứng kiến mỗi lần) v.v.

• Đế chế La Mã có hệ thống đường bộ rất hiệu quả và người dân đã di chuyển khá nhiều vào thời đó , ít nhất là đến các thị trấn lớn gần nhất để có nhiều cơ hội đưa tin tức.

 • Kitô giáo có tới 500-1000 tín đồ vào thời điểm Chúa Jesus qua đời.

• Kitô giáo có 1000-3000 tín đồ trước năm 60 CN

• Kitô giáo bắt đầu bị đàn áp  vào khoảng năm 60 CN

• Kitô giáo có từ 3.000 đến 10.000 tín đồ vào năm 100 CN

• Kitô giáo có từ 200.000 đến 500.000 tín đồ vào năm 200 CN

• Kitô giáo có từ 5.000.000 đến 8.000.000 tín đồ vào năm 300 CN

(dữ liệu từ Google dựa trên tổng hợp các nguồn Kitô giáo và thế tục)

Bằng chứng số liệu này dễ hiểu và được kỳ vọng dựa trên giả thuyết rằng phép lạ và sự phục sinh đã không xảy ra và rất là bất ngờ nếu dựa trên giả thuyết rằng phép lạ và sự phục sinh đã xảy ra. Tại sao ?  Hãy xem xét điều này: hàng tấn thực phẩm xuất hiện trước mặt hàng ngàn người, người mù bắt đầu nhìn thấy, người điếc - nghe được trong những ngôi làng nơi mọi người đều biết nhau, các bệnh hiểm nghèo khác biến mất, người chết xuất hiện trước mặt 300 người, các vị thánh sống lại sau cái chết của Jesus, người chết đi lang thang trong thành phố  v.v. Chắc chắn điều đó sẽ cải đạo không chỉ những người trực tiếp trải nghiệm , mà phải được lan truyền ít nhất là khắp đế quốc La Mã .

Nhưng thay vào đó, chúng ta thấy rằng không chỉ các nhân chứng không thể thuyết phục người khác mà chính các nhân chứng cũng đã cải đạo với tỷ lệ chưa đến 1 trên 10, 1 trên 20. Và đó là khi chưa có cuộc đàn áp nào được bắt đầu.

Và đột nhiên, ngay khi thế hệ những người và con cháu của họ, những người có thể nói "Tôi không nhớ hay đã nghe thấy bất kỳ điều gì trong số câu chuyện này thực sự xảy ra" và họ chết đi, Kitô giáo mới bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ.

Tôi kết luận rằng phép lạ đã KHÔNG xảy ra. Vì những nhân chứng và bằng chứng được đã cản trở sự phát triển của Kitô giáo, chứ không phải tạo điều kiện cho nó.  Hơn nữa, ba giờ tối tăm vào thời điểm Jesus bị đóng đinh lẽ ra phải cảnh báo toàn thế giới rằng một điều gì đó bất bình thường đang xảy ra. Kitô giáo lẽ ra phải phát triển bùng nổ ngay sau năm 30 CN và cũng phải cải đạo hầu hết các nhà cầm quyền La Mã đang chiếm đóng khu vực. Thay vào đó, nó lại trì trệ trong nhiều thập kỷ, chờ đợi các nhân chứng (những người có thể bác bỏ những lời tuyên bố) biến mất, để việc thêu dệt huyền thoại có thể tiếp thêm sức mạnh cho sự phát triển mới.

St

Chienslambao.blogspot.com




TAY TRÁIĐẤM TAY PHẢI XOA: CHÚA CHA CỰU ƯỚC TẠO RA SỰ DỮ, CHÚA CON TÂN ƯỚC LẠI KÊU TÍN ĐỒ NĂN NỈ ÔNG CHÚA CHA CỨU KHỎI SỰ DỮ. TRONG KHI HAI CHA CON THẬT RA CHỈ LÀ MỘT?😁


Thánh kinh Isaiah 45:7 (bản Hebrew gốc) ghi rất rõ:

“Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm; Ta làm ra bình an và dựng nên ra sự dữ (ra‘ – רע); Ta, YAHWEH, làm nên mọi sự.”

Điều này đặt ra một mâu thuẫn nội tại:

 • Kinh Lạy Cha trong Tân Ước dạy tín đồ “xin Cha cứu chúng con khỏi sự dữ” → nghĩa là Cha không muốn sự dữ xảy ra.

 • Nhưng Isaiah 45:7 lại cho thấy chính YAHWEH là nguồn tạo ra sự dữ.

Nếu giữ logic nguyên vẹn, thì lời cầu xin trong Kinh Lạy Cha chẳng khác gì xin người vừa cố ý gây ra tai nạn hãy cứu nạn nhân — vừa là thủ phạm, vừa là “cứu tinh”.

chienslambao.blogspot.com




Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2025

THÍCH NHẬT TỪ NÓI CON CHIÊN LÀ SÚCVẬT CON NG U ĐÚNG HAY SAI?


Ông sư TNT này nói quá đúng về bản chất phân biệt giai cấp của đạo ch úa rất rõ ràng, giai cấp con chiên (tín đồ) chỉ biết cúi đầu vâng phục giới cầm quyền (chủ chăn) một cách tuyệt đối không được quyền phản biện ý kiến ý cò gì sấc, một khi tín điều đã được ban ra, tín lý đã được công bố thì tôi đố con chiên nào dám thắc mắc hay luận bàn góp ý, cái vạ tuyệt thông tội dị giáo luôn chờ con chiên há mồm ra là thực thi ngay và luôn, chẳng có một đấng giáo chủ thiện lành, công bình chính trực nào lại ví von tín đồ của mình như một con chiên con cừu là một loài súcvật kém trí cần phải đc chủ chăn dắt, mãi mãi cũng chỉ là số kiếp chiên cừu tôi tớ nô tì bé mọn, không thể nào tiến hoá về mặt trí tuệ và tâm thức lên được ngang hàng với THIÊN CHÚA cả?😁. Đức Phật gọi các tín đồ của mình là các vị thiện hữu tri thức tương lai sẽ thành Phật giống như ngài, ta là Phật đã thành các con là Phật sẽ thành. Như vậy đấng giáo chủ của tôn giáo nào tôn trọng phẩm giá tín đồ thì tự hiểu đi nha.😁

Chienslambao.blogspot.com



Các Linh Mục Maryland Lạm Dụng TìnhDục Trong Khi Chúa Ngủ Quên

 

Trong một báo cáo gây sốc năm 2023 phanh phui việc lạm dụng trẻ em bởi các giáo sĩ Công giáo, lần này là tại bang Maryland, Hoa Kỳ, rõ ràng rằng nếu Chúa của Kitô giáo tồn tại, "Ngài" chẳng làm gì để ngăn chặn các đại diện trần thế của mình thực hiện những tội ác ghê tởm này đối với những người dễ tổn thương nhất.

Hơn 150 linh mục Công giáo và những người liên quan đến Tổng Giáo phận Baltimore đã lạm dụng tình dục hơn 600 trẻ em và thường thoát khỏi trách nhiệm giải trình, theo một báo cáo cấp bang được chờ đợi từ lâu, công bố tiết lộ quy mô lạm dụng kéo dài 80 năm và cáo buộc các lãnh đạo nhà thờ đã che đậy trong nhiều thập kỷ.

Báo cáo vẽ nên một bức tranh đáng sợ về Tổng Giáo phận, vốn là giáo phận Công giáo La Mã lâu đời nhất ở Mỹ và bao gồm phần lớn bang Maryland. Một số giáo xứ, trường học và cộng đoàn đều có hơn một kẻ lạm dụng mọi thời điểm— bao gồm Giáo xứ St. Mark ở Catonsville, nơi có 11 kẻ lạm dụng sống và làm việc ở đây từ năm 1964 đến 2004. Một phó tế thừa nhận đã lạm dụng hơn 100 trẻ em. Một linh mục khác được phép giả vờ điều trị viêm gan và đưa ra các lý do khác để tránh đối mặt với cáo buộc lạm dụng.

Văn phòng Tổng Chưởng lý Maryland đã công bố kết quả cuộc điều tra kéo dài nhiều năm trong Tuần Thánh — được coi là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm của Kitô giáo trước Chủ nhật Phục sinh — và cho biết số lượng nạn nhân có thể còn cao hơn nhiều. Báo cáo đã được chỉnh sửa để bảo vệ các tài liệu bí mật của đại bồi thẩm đoàn, nghĩa là danh tính của một số giáo sĩ bị cáo buộc đã bị xóa.

"Sự lan tràn đáng kinh ngạc của các vụ lạm dụng nhấn mạnh trách nhiệm của hệ thống lãnh đạo Nhà thờ," báo cáo viết. "Số lượng kẻ lạm dụng và nạn nhân, mức độ đồi bại của hành vi kẻ lạm dụng, và tần suất mà những kẻ lạm dụng đã biết được trao cơ hội tiếp tục săn đuổi trẻ em là điều gây sốc."

Báo cáo này không chỉ là một bản cáo trạng đối với Tổng Giáo phận Baltimore mà còn là một lời buộc tội nặng nề đối với toàn bộ hệ thống tôn giáo tuyên bố đại diện cho một vị Chúa toàn năng, toàn tri và toàn thiện. Nếu một vị Chúa như thế thực sự tồn tại, sự im lặng của ông ta trước những tội ác kinh hoàng này không chỉ là sự thờ ơ mà là một sự đồng lõa ngầm. Hơn 600 trẻ em bị lạm dụng, hàng trăm kẻ lạm dụng được che chở, và hàng thập kỷ che đậy — tất cả dưới danh nghĩa của một tôn giáo tự nhận là ngọn cờ của đạo đức và tình yêu thương. Điều này đặt ra một câu hỏi không thể né tránh: Nếu Chúa thực sự toàn năng và biết hết mọi sự, tại sao  lại để những đứa trẻ vô tội bị hủy hoại bởi chính những kẻ được coi là "người chăn chiên" của Chúa ?

Sự thất bại của Giáo hội Công giáo trong việc bảo vệ những người dễ tổn thương nhất không chỉ là vấn đề của một vài "con sâu làm rầu nồi canh", mà là một căn bệnh hệ thống ăn sâu vào cơ cấu quyền lực và văn hóa che đậy của tổ chức này. Báo cáo chỉ ra rằng các lãnh đạo nhà thờ không chỉ biết về các vụ lạm dụng mà còn tích cực bảo vệ kẻ phạm tội, cho phép chúng tiếp tục gây hại. Một phó tế lạm dụng hơn 100 trẻ em, một linh mục giả bệnh để tránh trách nhiệm — đây không phải là những sự cố cá biệt mà là biểu hiện của một hệ thống mục ruỗng, nơi hình ảnh và quyền lực của Giáo hội được đặt lên trên sự an toàn của trẻ em.

Người Kitô hữu phải tin rằng Chúa đang chứng kiến chuyện này xảy ra với quyền năng để ngăn chặn, nhưng lại chọn không làm gì. Vậy mà, họ vẫn thờ phượng CON QUÁI VẬT này??

https://www.nytimes.com/2023/04/05/us/catholic-church-abuse-baltimore.html

Chienslambao.blogspot.com




Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Dạy học cho linh mục Yen Huu (Nguyen Tuan) qua bài “Phật giáo và ảo tưởng "diệt dục"”


“Ảo tưởng về sự hiểu biết” trong phê phán Phật giáo

 1. Bắt đầu từ hiểu sai để dựng nên cái sai

Bạn cho rằng Phật giáo chủ trương “buông bỏ toàn bộ dục vọng” là cách hiểu sai ngay từ nền tảng. Đức Phật không dạy “diệt dục” theo nghĩa tiêu diệt mọi ham muốn tự nhiên, mà là chuyển hóa các dục vọng thấp hèn (Tham ái – Tanhā) thành chí nguyện thanh cao (Dục – Chanda). Ngược lại, chính trong lịch sử Ki-tô giáo, ta mới thấy những hình thức “diệt dục” cực đoan thật sự – từ chủ trương khổ hạnh, tự đánh đập thân xác, cho đến việc cấm đoán tình dục như tội lỗi, kể cả trong hôn nhân. Sự phê phán Phật giáo ở đây chỉ là một cách che giấu mặc cảm nội tại của chính Ki-tô giáo về lối sống phủ nhận thân xác trong nhiều thế kỷ.

 2. Gán ghép “phản tự nhiên” để che đi lịch sử chống lại tự nhiên của Giáo hội

Tác giả nói “mọi người đều có dục vọng” như một phản biện đinh tạc – nhưng Phật giáo chưa bao giờ phủ nhận điều đó. Phật giáo dạy rằng con người có dục vọng, nhưng dục vọng cần được hướng thiện và không nên làm chủ con người. Câu hỏi đặt lại: Vậy Ki-tô giáo thì sao? Phải chăng việc dạy rằng Eve bị cám dỗ bởi trái cấm – vì muốn tri thức – không phải là một kiểu kết tội dục vọng ngay từ thuở đầu? Chính truyền thống Ki-tô giáo mới là nơi coi khát vọng hiểu biết là sự bất tuân, và đày đọa toàn thể nhân loại chỉ vì một hành vi khát khao tự do.

 3. Freud và Maslow không bênh vực dục vọng mù quáng

Việc lôi Freud và Maslow để bênh vực dục vọng là cách dùng lý thuyết rời ngữ cảnh. Freud mô tả libido như năng lượng tâm lý, nhưng ông cũng nói rõ rằng nếu không được điều hòa qua cơ chế kiểm duyệt (super-ego), libido sẽ dẫn đến rối loạn tâm thần. Còn Maslow không cổ vũ dục vọng không giới hạn; ông phân cấp nhu cầu theo tiến trình trưởng thành và nhấn mạnh vai trò của tự chủ và tự thực hiện. Phật giáo không bài bác dục vọng, mà đúng như Maslow hay Carl Jung – đề cao sự chuyển hóa nó thành lý tưởng sống.

 4. “Không còn ham muốn thì không còn hạnh phúc” – một luận đề trẻ con

Lập luận này đơn giản đến mức đáng ngạc nhiên. Nếu hạnh phúc chỉ tồn tại khi được thỏa mãn ham muốn, thì toàn bộ đời sống nội tâm, sự thanh thản, sự an nhiên, đều bị phủ nhận. Rất nhiều người vẫn hạnh phúc ngay cả khi không còn gì để mong cầu – vì họ đã vượt lên ham muốn, chứ không bị nó điều khiển.

Thật trớ trêu, chính Ki-tô giáo từng dạy phải “từ bỏ chính mình”, phải “chết đi con người cũ”, lại nay quay sang coi dục vọng là nền tảng của hạnh phúc. Đó không phải là phản biện Phật giáo, mà là phản bội chính đức tin của mình.

 5. Buông bỏ không phải là chạy trốn – trừ khi bạn đang mô tả chính Ki-tô giáo

Tác giả nhầm lẫn buông bỏ trong Phật giáo với thái độ rút lui khỏi cuộc sống. Nhưng thật trớ trêu, chính Ki-tô giáo mới là tôn giáo xây dựng đức tin bằng cách phủ nhận trần gian, coi thân xác là yếu đuối, dục vọng là tội lỗi, và hạnh phúc thật chỉ tồn tại sau cái chết – trên một thiên đàng huyễn tưởng, đầy tính trốn chạy.

Nếu buông bỏ là tiêu cực, thì việc rao giảng “phúc cho ai nghèo khó”, hay “hãy từ bỏ chính mình” trong Kinh Thánh là gì nếu không phải cổ xúy cho sự từ chối thế giới này? Phật giáo không rao giảng thoát ly vì bất lực, mà vì thấu hiểu bản chất vô thường và khổ đau của đời sống để sống tỉnh thức hơn, từ bi hơn, hòa giải hơn. Buông bỏ trong Phật giáo là làm chủ bản thân giữa cuộc đời, chứ không phải chối bỏ cuộc đời để tìm phần thưởng hậu thế.

 6. Phật giáo không trốn tránh thực tại mà dạy chuyển hóa thực tại từ tâm

Các liệu pháp hiện đại như CBT, ACT hay logo-therapy đều nhấn mạnh việc điều chỉnh nhận thức, chấp nhận đau khổ và tái định nghĩa ý nghĩa sống – những điều Phật giáo đã dạy từ hơn 2500 năm trước qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.

Nếu gọi Phật giáo là phản trị liệu vì không tìm cách thay đổi ngoại cảnh, thì cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận cả ngành tâm lý học hiện đại – vốn chia sẻ cùng nguyên lý: không kiểm soát thế giới, mà kiểm soát tâm. Trái lại, chính Ki-tô giáo mới gieo vào con người tâm thế bất lực, khi dạy rằng mọi sự đều phải “phó thác cho Thiên Chúa”, còn khổ đau chỉ có thể “dâng lên Chúa” thay vì tự mình chuyển hóa. Đó mới là tư duy thoát ly thực tại đích thực.

 7. Tu hành là ích kỷ? Hay đó chỉ là sự phản chiếu từ Ki tô giáo?

Gọi tu hành là ích kỷ là một sự đánh tráo khái niệm. Tu sĩ Phật giáo không chỉ sống vì mình, mà sống để rèn tâm, để từ bi hóa hiện sinh, và để phụng sự cộng đồng trong tỉnh thức. Họ xây chùa làm lớp học, mở bệnh viện, cứu trợ thiên tai, hóa giải chiến tranh. Nhiều vị, như Thích Nhất Hạnh, đã trở thành biểu tượng hòa bình toàn cầu.

Nếu vài trường hợp cá biệt bị lấy ra để kết luận toàn bộ Phật giáo là ích kỷ, thì với cùng tiêu chuẩn ấy, Ki-tô giáo sẽ phải gánh lấy hình ảnh của hàng ngàn linh mục lạm dụng tình dục trẻ em, của các tu viện từng là nơi giam giữ, hành hạ phụ nữ như ở Ireland, và của những giáo hoàng từng giấu giếm tội ác để bảo vệ uy tín giáo hội. Ai mới là ích kỷ? Ai mới sống vì quyền lực tôn giáo hơn là vì con người?

 8. Nhân loại phát triển không nhờ dục vọng, mà nhờ lý tưởng siêu việt – điều mà Phật giáo nâng đỡ, còn Ki-tô giáo thì né tránh

Những bước tiến lớn của nhân loại – từ khoa học, nghệ thuật đến nhân quyền – đều bắt nguồn từ lý tưởng vượt lên bản năng, không phải từ dục vọng bản năng mù quáng. Einstein không nghiên cứu vì tiền, Mandela không ngồi tù vì lạc thú, và Tolstoy không viết vì dục vọng. Họ hành động vì chân lý, vì nhân phẩm, vì tình thương – đúng như lý tưởng mà Phật giáo nuôi dưỡng qua vô ngã, từ bi và tuệ giác giải thoát.

Phật giáo truyền cảm hứng cho thiền định, y học, giáo dục và hòa bình – góp phần trực tiếp vào sự trưởng thành tâm linh của nhân loại. Trong khi đó, Ki-tô giáo, như chính Nietzsche phê phán, lại đặt trọng tâm vào một thế giới khác, vào phần thưởng sau khi chết, và cổ vũ tinh thần từ bỏ thế gian để mong cầu thiên đường – một kiểu “chủ nghĩa hư vô” dẫn đến lẩn tránh hiện thực, bóp nghẹt khát vọng tự do và tư duy phản biện nơi con người. Nếu ai đang cổ vũ cho sự thoái lui khỏi đời sống thì không phải là Phật giáo.

9. Các quốc gia nghèo không do Phật giáo, nhưng sự trì trệ của Ki-tô giáo từng làm nhân loại đi lùi cả nghìn năm

Myanmar, Campuchia hay Bhutan nghèo không phải vì Phật giáo, giống như Brazil hay Philippines nghèo cũng không phải vì Ki-tô giáo. Nguyên nhân sâu xa nằm ở chính trị, lịch sử, địa lý và áp lực toàn cầu hóa.

Nói Phật giáo làm đất nước trì trệ cũng giống như quy trách nhiệm cho Ki-tô giáo về thời kỳ Trung Cổ kéo dài hơn một thiên niên kỷ – khi giáo hội đã kìm hãm khoa học và lý trí, đốt sách, kết án Galileo chỉ vì ông dám thách thức quyền lực thần quyền. Nếu muốn tìm một tôn giáo cản trở sự phát triển, hãy nhìn thẳng vào lịch sử của chính Ki-tô giáo – nơi đã từng dẫm đạp lên tri thức và nhân quyền để bảo vệ độc quyền giáo điều.

 10. Phổ quát? Phật giáo không dùng bạo lực để ép buộc như Ki-tô giáo

Mọi tư tưởng đều có phạm vi ứng dụng và Phật giáo chưa bao giờ tuyên bố độc quyền chân lý tuyệt đối. Ngược lại, Ki-tô giáo từng thừa nhận “chân lý duy nhất” của Thập tự giá đến mức hàng triệu người bị giết chỉ vì không chấp nhận giáo điều này.

Nếu bạn không thích Phật giáo, hoàn toàn có thể chọn con đường khác, nhưng không ai có quyền bóp méo hay xuyên tạc Phật giáo để biện minh cho những tham vọng bành trướng tôn giáo bằng bạo lực và áp đặt. Chính lịch sử Ki-tô giáo đã chứng minh sức mạnh ghê tởm của cưỡng chế và bắt buộc – điều mà Phật giáo luôn tránh xa.

 11. Người tầm thường không phải vì tu Phật – mà vì không làm chủ dục vọng, như chính lịch sử Ki-tô giáo từng cho thấy

Gọi người tu Phật là “tầm thường” là cái nhìn phiến diện. Thật ra, con người trở nên tầm thường khi không hiểu dục vọng là gì, và không thấy rằng dục vọng cũng có thể dẫn đến tha hóa – như trong tham nhũng, lạm quyền, xâm hại tình dục hay chiến tranh. Dục vọng không được chuyển hóa sẽ trở thành mầm mống hủy diệt – điều mà Phật giáo đã chỉ rõ từ hơn 2.500 năm trước.

Phật giáo không bài trừ dục vọng, mà dạy làm chủ nó – sống với từ bi và trí tuệ. Điều này khác hẳn với lịch sử Ki-tô giáo, nơi các giáo sĩ rao giảng tiết dục nhưng chính họ lại là thủ phạm trong hàng loạt vụ bê bối tình dục kéo dài hàng thế kỷ. Nếu Chúa Giê-su từng nói “phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó”, thì Đức Phật đi xa hơn: Ngài chỉ ra rằng khi tâm được giải thoát khỏi dục vọng thì thế giới mới thật sự an bình.

Tóm lại, nếu có một “ảo tưởng” ở đây, thì đó chính là ảo tưởng rằng mình đã hiểu Phật giáo khi chỉ nhìn nó từ những định kiến cố hữu của một hệ thống giáo điều đã từng thiêu sống biết bao nhà khoa học chỉ vì họ không chịu tin vào một “sự thật duy nhất”. Sự khiêm nhường trí tuệ là điều cả Phật giáo lẫn Ki-tô giáo đích thực đều trân trọng. Và bài viết công kích Phật giáo vừa rồi, tiếc thay, thiếu vắng điều ấy.

(Mời các bạn vào sachhiem.net để phát hiện chân tướng Kito giáo)

St

Chienslambao.blogspot.com







NGƯỜI CHA Ở GIÁO XỨ CHÚNG CON RẤT TỐT.

 

Thế giới đã quá quen với những bản tin linh mục lạm dụng tình dục ở Mỹ, Pháp, Úc, Anh, Ireland… đến mức Vatican phải lập cả đường dây nóng. Nhưng mảnh đất hình chữ S của Việt Nam lại được chúa “đặc cách chăm sóc”, vì thế hiện tượng ấy tuyệt nhiên vắng bóng. Một vùng đất thánh thiện đến mức nếu có cha nào lỡ... sa chân, thì chắc chỉ vì Satan nói dối hộ người tố cáo.

Không phải vì không có, mà vì không được phép nói có. Bạn thử đăng bài tố cáo linh mục xâm hại trẻ em lên Facebook xem. Cơn thịnh nộ từ hội “chiên ngoan" sẽ trút xuống đầu bạn như thể bạn mới là kẻ tội phạm, còn cha “kính yêu" thì đang chịu đóng đinh vì tội tin vào loài người.

Họ sẽ giảng cho bạn nghe thế nào là “phá hoại hiệp thông”, là “làm gương mù”, là “nói xấu người được chúa chọn”. Họ sẽ không cần biết ai là nạn nhân, mà chỉ biết ai là linh mục. Và nếu cha mặc áo lễ, thì đương nhiên phải được tha thứ trước cả khi thú tội.

Ở những nơi văn minh, người ta dám vạch mặt kẻ ác, dù người đó có khoác áo dòng hay đội vương miện. Còn ở đây, chỉ cần bạn nói điều trái ý giáo hội, bạn sẽ lập tức bị đóng nhãn “thù nghịch”. Còn cha, dù làm gì đi nữa, cũng đã có sẵn bộ “bùa hộ mệnh" đạo đức: “Ai không có tội thì ném đá trước đi”, “Chúa bảo tha thứ bảy mươi lần bảy”, “Đừng xét đoán kẻ khác”…

Nói cách khác, chỉ cần xưng là người của chúa, bạn lập tức được hưởng đặc quyền đạo đức miễn trách nhiệm, được nhồi xổm trên pháp luật nhà nước. Tha thứ không dành cho nạn nhân, mà dành cho kẻ có áo thụ phong. Và sự im lặng được xem là “bình an trong chúa”.

Chúng ta đang sống trong một cộng đồng tôn giáo nơi người ta dạy con trẻ phải tin cha tuyệt đối, nhưng lại không dạy cha phải đáng tin. Người tố cáo thì bị coi là bị quỷ ám, còn linh mục thì được mặc định là "con người yếu đuối cần cảm thông". Cả hệ thống chỉ cần một điều: đừng làm mất mặt giáo hội.

Đạo Công giáo Việt Nam có hàng triệu tín hữu, nhưng không có không gian bảo vệ người dám tố cáo hành vi phạm tội của linh mục. Ở đây, đạo không cần sạch, chỉ cần yên. Yên là khi mọi điều sai trái được giữ trong tòa giải tội, được khuyên răn "không nên vạch áo cho người xem lưng", chứ không phơi ra trước ánh sáng.

Chúa ơi, nếu có linh mục phạm tội trong cộng đoàn này, xin cho họ phạm ở một giáo phận khác. Phạm ở Mỹ, phạm ở Pháp, phạm ở chỗ nào Vatican từng xin lỗi cũng được. Miễn là đừng phạm… trên Facebook Việt Nam.

Còn nếu ai vẫn khăng khăng nói có linh mục lạm dụng ở Việt Nam, thì xin hãy xuống địa ngục trước đi. Ở đây, chúng tôi chỉ nghe cha, không nghe trẻ con. Nhất là trẻ con dám nói thật.

https://www.facebook.com/share/v/19SyekfnLC/

Chienslambao.blogspot.com



Xã Hội Trở Nên TànÁc Nhất Khi Niềm Tin Tôn Giáo Mạnh Mẽ Nhất

 

Không ai có thể phủ nhận rằng trong thời Trung Cổ, niềm tin vào Kitô giáo lan tỏa mạnh mẽ, với một sự nhiệt thành và mãnh liệt vượt xa so với các Kitô hữu thời hiện đại. Theo quan điểm của nhiều nhà biện hộ Kitô giáo, một xã hội ngập tràn đức tin như vậy lẽ ra phải là hiện thân của lòng nhân ái, sự khoan dung, tính thánh thiện và tình yêu thương – những giá trị được cho là cốt lõi của Kitô giáo – hơn hẳn thế giới thế tục ngày nay. Tuy nhiên, thực tế lịch sử lại vẽ nên một bức tranh hoàn toàn trái ngược, như triết gia Bertrand Russell đã chỉ ra :

 "Như tôi từng đề cập, tôi không tin rằng lý do thực sự khiến con người chấp nhận tôn giáo bắt nguồn từ lập luận logic. Họ đón nhận tôn giáo vì những động cơ cảm xúc. Người ta thường bảo tôi rằng công kích tôn giáo là sai trái, bởi tôn giáo là nguồn gốc của đức hạnh. Nhưng tôi không nhận thấy điều đó. Các bạn hẳn quen thuộc với sự nhại lại đầy châm biếm về lập luận này trong  tiểu thuyết Erewhon Revisited  của Samuel Butler. Trong câu chuyện, nhân vật Higgs đến một vùng đất xa lạ, rồi trốn thoát bằng khinh khí cầu. Hai mươi năm sau, khi trở lại, ông phát hiện mình được tôn thờ như “Đứa Con của Mặt Trời”, với truyền thuyết rằng ông đã thăng thiên. Một lễ hội kỷ niệm sự thăng thiên sắp diễn ra, nhưng hai người, Hanky và Panky – những thượng tế của tôn giáo này – thì thầm với nhau rằng họ chưa từng gặp Higgs và hy vọng không bao giờ phải gặp. Khi Higgs phẫn nộ định vạch trần sự dối trá, tuyên bố ông chỉ là một con người bình thường bay lên bằng khinh khí cầu, ông bị cảnh báo: “Anh không được làm vậy, vì đạo đức của cả đất nước này được xây dựng trên truyền thuyết đó. Nếu dân chúng biết sự thật, họ sẽ trở nên tha hóa.” Bị thuyết phục bởi lập luận này, Higgs lặng lẽ rời đi."

Lập luận này phản ánh một quan niệm phổ biến: rằng nếu không có tôn giáo như Kitô giáo, con người sẽ đánh mất đạo đức và chìm vào sự đồi bại. Tuy nhiên, thực tế lịch sử lại phơi bày một chân lý đáng kinh ngạc: những thời kỳ mà niềm tin tôn giáo mãnh liệt nhất, giáo điều được tôn sùng tuyệt đối, lại chính là những giai đoạn chứng kiến sự tàn bạo khủng khiếp và tình trạng xã hội tồi tệ nhất. Trong “Thời đại của đức tin”, khi Kitô giáo được chấp nhận một cách tuyệt đối, Tòa án Dị giáo đã tra tấn vô số người ,hàng triệu phụ nữ bị thiêu sống với cáo buộc phù thủy  và đủ loại hành vi tàn nhẫn được thực hiện nhân danh tôn giáo.

Khi quan sát lịch sử thế giới, ta thấy rằng mọi tiến bộ trong lòng trắc ẩn, mọi cải cách trong luật pháp , mọi nỗ lực giảm thiểu chiến tranh, mọi bước tiến trong việc đối xử công bằng với các dân tộc thiểu số, xóa bỏ chế độ nô lệ, hay bất kỳ sự cải thiện đạo đức nào, đều vấp phải sự phản đối quyết liệt từ các tổ chức nhà thờ , giáo hội Công giáo La Mã. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ luôn khẳng định một cách dứt khoát: Kitô giáo, dưới hình thức các nhà thờ có tổ chức, không chỉ từng mà vẫn đang là trở ngại lớn nhất đối với tiến bộ đạo đức của nhân loại.

Trái ngược với những lời than vãn của nhiều Kitô hữu rằng thế giới ngày càng suy đồi khi trở nên ít có đức tin hơn – như thể hôn nhân đồng tính có thể sánh ngang với việc tra tấn phù thủy – thực tế cho thấy đạo đức đã tiến bộ vượt bậc. Xã hội hiện đại đã mở rộng vòng tay với các nhóm thiểu số, những người bị gạt ra bên lề, trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, và thậm chí cả động vật, với những cải thiện đáng kể trong cách đối xử công bằng và nhân văn. Thực tế này là một lập luận đầy sức thuyết phục có thể được đưa ra rằng: mức độ đạo đức của một xã hội tỷ lệ thuận với sự suy giảm niềm tin vào các thực thể siêu nhiên, bởi chính sự giải phóng khỏi giáo điều đã mở đường cho lòng trắc ẩn và công lý đích thực.

https://users.drew.edu/~jlenz/whynot.html

St

Chienslambao.blogspot.com




SỰ KHÁC NHAU GIỮA LỄ HẰNG THUẬN TRONG PHẬT GIÁO VÀ BÍ TÍCH HÔN PHỐI TRONG KI TÔ GIÁO


 Lễ hằng thuận quy y trong Phật giáo không phải là bắt chước lễ hôn phối trong nhà thờ của đạo ki tô mà đã có từ rất lâu, trước khi đạo ki tô giáo được du nhập vào nước ta vào đầu thế kỷ 17, Lễ Hằng Thuận là một nghi thức do các nhà sư PG đứng ra tổ chức hôn lễ cho phật tử được tổ chức tại tư gia hoặc tại chùa, nguồn gốc xuất phát từ thời đức Phật còn tại thế, ngài được mời đến nhà cư sĩ Cấp Cô Độc thọ trai đến nơi thì nghe tiếng chửibới chồng của người con dâu ông này ở phía sau nhà, người phật tử này xấu hổ vì có đứa con dâu hỗnxược này và có lời thỉnh cầu đức Phật có đôi lời dạy bảo, sau bữa thọ trai đức Phật mời hai vợ chồng cô dâu này lên gặp ngài để khuyên dạy, đức Phật dạy bài kinh bảy loại vợ chồng (vợ như em gái, vợ như kẻ trộm,...), cô vợ và anh chồng nghe lời Phật dạy quá xúc động, hứa sẽ hoà thuận thương yêu nhau không còn gây chuyện với nhau nữa. Thời Đinh, Lê, Lý, Trần ở nước ta PG trở thành quốc giáo, vua, quan và dân chúng đều là Phật tử các nghi lễ vòng đời của mỗi người như: Quan, Hôn, Tang, Tế đều do các vị sư PG đảm nhiệm.

https://phatgiao.org.vn/bai-kinh-bay-loai-vo--kinh-tang-chi-bo-d56513.html

St

Chienslambao.blogspot.com




Thứ Tư, 6 tháng 8, 2025

JESUS BAY XÁC PHÀM VỀ TRỜI ĐỂ SỬ DỤNG VÀO MỤC ĐÍCH GÌ?

Jesus mồm thì luôn nói thân xác này là giả tạm cuối cùng rồi nó cũng sẽ trở thành tro bụi hư vô (ý nghĩa lễ tro), nhưng hắn là một kẻ luôn trân quý xác phàm hết mực đến nỗi thân xác bị đóng đinh banh chành không còn nguyên vẹn, chết rồi vẫn đội mồ sống dậy, bay hồn xác về trời cho đủ combo mới chịu.😁 

Chienslambao.blogspot.com





PHẢN BIỆN HAY NGỤY BIỆN CHO HÀNH VI TỘI ÁC CỦA THIÊNCHÚA?

 Một tín đồ Kitô giáo đã biện hộ phản bác lời chỉ trích từ người quan sát về hành động và trách nhiệm của Chúa trong vụ việc hủy diệt thành Jericho , một thành phố của người Canaan. Kết quả không ai sống sót, trừ Rahab và gia đình vì cô ấy giúp dân Israel. Đây không phải chiến tranh thông thường mà là một cuộc thanh trừng có chủ đích, được mô tả là do Chúa chỉ đạo.

Lời biện hộ của tín đồ được thể hiện bởi một ví dụ mà cậu ta đưa ra ( như ảnh )

-------- 

Lời biện hộ của tín đồ này là một trò ảo thuật ngôn từ, cố gắng biến tội ác diệt chủng thành một câu chuyện gia đình ấm áp, nhưng chỉ lộ ra sự ngụy biện trơ trẽn và thiếu lương tri. Hãy bốc trần trò ảo thuật này .

Tín đồ ví vụ diệt chủng Jericho , nơi dân Israel, theo lệnh Chúa, “dùng gươm diệt sạch đàn ông, đàn bà, trẻ con, người già, bò, chiên, lừa” (Giô-suê 6:21) – với việc con chị “phang” con em vì giành đồ chơi. Thật là một phép so sánh “đáng yêu” ! Một bên là trẻ con cãi nhau, sưng một cục, khóc tí rồi huề. Bên kia là máu chảy thành sông, trẻ em bị chém chết, cả thành bị xóa sổ. So sánh này không chỉ xúc phạm nạn nhân mà còn biến tội ác chiến tranh thành trò đùa trẻ con. Nếu diệt chủng chỉ là “cú phang đầu”, thì chắc Holocaust là “tát yêu” và thả bom nguyên tử là “véo má” thôi, đúng không ?

Tín đồ nói con người tự do hành động, Chúa chỉ “chịu trách nhiệm” sửa dạy. Nhưng trong Kinh Thánh, Chúa không đứng ngoài lề. Ông ta chọn dân Israel, chỉ định mục tiêu (dân Canaan), ra lệnh tàn sát, ban chiến lợi phẩm, và còn “chúc phước” cho kẻ chiến thắng. Tự do ở đâu khi mọi bước đều được Chúa định đoạt ? Tín đồ muốn Chúa vừa toàn năng, vừa vô tội, nhưng cái giá là biến các nạn nhân thành “đồ chơi” trong tay một vị thần thích chơi trò chiến tranh.

Tín đồ mô tả Chúa như người cha “băng bó, sửa dạy” sau khi con cái đánh nhau. Vậy sau vụ Jericho, Chúa đã “băng bó” ai ? Những phụ nữ, trẻ em bị chém chết ? Hay đàn bò, lừa bị giết sạch ? Kinh Thánh không ghi lại cảnh Chúa “ôm ấp, thoa dầu” cho nạn nhân. Thay vào đó, ông ta ban đất đai và của cải cho dân Israel – phần thưởng cho cuộc tàn sát. Nếu một vị tướng ra lệnh san bằng một ngôi làng, rồi quay lại phát kẹo cho vài người sống sót, bạn gọi đó là “yêu thương” ? Không, đó là đạo đức giả, và tín đồ này đang cố tô vẽ một vị thần tàn nhẫn thành ông bố mẫu mực.

Tín đồ gọi - Người chỉ trích hành động trách nhiệm của Chúa - là “thằng bé hàng xóm” chỉ biết gào lên “bạo hành” mà không hiểu “toàn cảnh”. Xin lỗi, “toàn cảnh” của Kinh Thánh là gì ? Một vị thần chọn một dân tộc làm “con cưng”, ra lệnh diệt các dân khác, và gọi đó là “công lý thánh thiện”. Nếu chuyện này xảy ra hôm nay, Liên Hợp Quốc sẽ gọi đó là tội ác chống nhân loại, và “thằng bé hàng xóm” chính là người duy nhất dám lên tiếng giữa đám đông thờ ơ. Tín đồ muốn chúng ta im lặng trước diệt chủng để “thưởng thức” cảnh gia đình Chúa vui vẻ “ăn kem, đọc sách” ? Thật là một bức tranh hạnh phúc được xây trên xương máu của những người vô tội !.

St

Chienslambao.blogspot.com





Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Từ Góc Nhìn Của Do Thái Giáo - Kitô Giáo Đã Đánh Cắp Kinh Do Thái


Kitô giáo xây dựng nền tảng trên năm tuyên bố cốt lõi, được cho là “ứng nghiệm” từ Kinh Do Thái (Cựu Ước), nhưng thực chất là một sự tái định hướng táo bạo, biến những lời tiên tri cổ xưa thành câu chuyện hoàn toàn mới. Nếu bạn lớn lên trong nhà thờ, bạn được dạy phải tin rằng:

1. Chúa Jesus được sinh ra từ một trinh nữ. 

2. Ngài chết để chuộc tội cho nhân loại.  

3. Ngài sống lại sau ba ngày.  

4. Ngài thăng thiên về trời.  

5. Và Ngài sẽ trở lại để hoàn tất sứ mệnh, dù thời điểm ấy dường như mãi lùi xa.  

Nhưng đây là sự thật đáng suy ngẫm: Kinh Do Thái, vốn là nền tảng của những tuyên bố này, không hề chứa đựng các ý tưởng trên. Kitô giáo đã lấy văn bản thiêng liêng của người Do Thái, gắn nhãn “Cựu Ước” như một phần tiền truyện, và tuyên bố rằng mọi thứ đều dẫn đến Chúa Jesus

Hãy tưởng tượng bạn đọc 'Chúa tể những chiếc nhẫn' và ai đó khăng khăng rằng cả bộ truyện thực ra là nói về Siêu Nhân. Sự bất hợp lý đó chính là những gì đã xảy ra khi Kitô giáo tái định nghĩa Kinh Do Thái. Hãy cùng phân tích từng tuyên bố để thấy rõ sự thật bị bóp méo:

---

📌  1. Sinh ra từ một trinh nữ ? Một sự hiểu lầm cố ý.

Tuyên bố của Kitô giáo:  Ê-sai 7:14 tiên tri rằng Đấng Mê-si sẽ được sinh ra từ một trinh nữ, ám chỉ Chúa Jesus

Sự thật: Trong tiếng Do Thái, từ “almah” trong câu này có nghĩa là “thiếu nữ” hoặc “phụ nữ trẻ,” không phải “trinh nữ” (tiếng Do Thái có từ riêng cho trinh nữ là “betulah,” nhưng lại không được dùng ở đây). Lời tiên tri này là một dấu hiệu dành cho vua A-khát, nhằm trấn an ông về chiến thắng trước hai kẻ thù: vua Rê-xin của Syria và vua Phê-kha của Israel (Ê-sai 7:1).  

Câu 7:16 rõ ràng nói: “Trước khi đứa trẻ biết phân biệt đúng sai, đất của hai vua mà ngươi sợ sẽ bị bỏ hoang.” Hai vua này sống cách Jesus 700 năm. Vậy làm sao một lời tiên tri dành cho một sự kiện tức thời, cụ thể trong thế kỷ 8 TCN, lại có thể nói về Jesus ?

Hơn nữa, nếu đứa trẻ là Jesus, điều đó ngụ ý Syria và Israel vẫn đang đe dọa Judah vào thế kỷ 1 CN – một điều phi lý về mặt lịch sử. Việc dịch sai từ “almah” thành “trinh nữ” và bỏ qua ngữ cảnh lịch sử là một sự tái định hướng cố ý, biến một câu chuyện địa phương thành lời tiên tri toàn cầu.

---

📌 2. Chết để chuộc tội ? Một khái niệm xa lạ với người Do Thái .

Tuyên bố của Kitô giáo: Ê-sai 53 mô tả Chúa Jesus như “người tôi tớ đau khổ,” bị “đâm vì tội lỗi của chúng ta.”  

Sự thật: Trong truyền thống Do Thái, Ê-sai 53 luôn được hiểu là nói về dân tộc Israel , được nhân cách hóa như “người tôi tớ” chịu đau khổ vì các quốc gia khác, nhưng cuối cùng được phục hồi và vinh quang. Câu 53:10 nói rằng người tôi tớ “sẽ thấy dòng dõi mình” và sống lâu, điều này không phù hợp với Jesus, người không có con cái và được cho là đã chết trẻ. Nếu Jesus là Chúa được cho là bất tử thì việc đề cập sự sống lâu không có ý nghĩa gì .

Quan trọng hơn, Kinh Do Thái nhấn mạnh rằng không ai có thể chết để chuộc tội cho người khác. Ê-xê-chi-ên 18:20 rõ ràng: “Người phạm tội sẽ chết. Con không mang tội cha, cha không mang tội con.” Ý tưởng về một người hy sinh để xóa tội cho nhân loại là một khái niệm hoàn toàn xa lạ với Do Thái, nhưng lại là nền tảng của thần học Kitô giáo.  

Việc gán ghép Ê-sai 53 cho Jesus không chỉ bỏ qua ý nghĩa truyền thống mà còn mâu thuẫn với các nguyên tắc cốt lõi của Do Thái giáo về trách nhiệm cá nhân trước Thiên Chúa.

---

📌 3. Sống lại sau ba ngày ? Không có lời tiên tri nào như vậy.

Tuyên bố của Kitô giáo: Sự phục sinh của Jesus được tiên đoán trong Kinh Do Thái, thường dựa vào Ô-sê 6:2: “Sau hai ngày, Ngài sẽ làm chúng ta sống lại; ngày thứ ba, Ngài sẽ khiến chúng ta đứng dậy.”  

Sự thật: Ô-sê 6:2 là một ẩn dụ về sự phục hồi của dân Israel sau đau khổ, không phải lời tiên tri về một cá nhân sống lại từ cõi chết. Không một đoạn nào trong Kinh Do Thái nói rằng Đấng Mê-si sẽ chết và sống lại sau ba ngày.  

Hơn nữa, Tân Ước kể rằng Chúa Jesus chết vào chiều thứ Sáu và sống lại vào sáng Chủ Nhật – chỉ khoảng 36 giờ, không phải ba ngày . Việc kéo dài thời gian này thành “ba ngày” và gán ghép nó vào một câu ẩn dụ không liên quan là một sự bóp méo rõ ràng, nhằm tạo ra một “ứng nghiệm” không tồn tại.

---

📌 4. Thăng thiên ? Một hình ảnh không có trong Kinh Do Thái.

Tuyên bố của Kitô giáo:  Sự thăng thiên của Chúa Jesus là dấu hiệu của thần tính và quyền năng của Ngài.  

Sự thật: Kinh Do Thái không hề tiên tri rằng Đấng Mê-si sẽ bay lên trời như một vị thần. Ngược lại, Đấng Mê-si được mô tả là một vị vua trần thế, hậu duệ của David, có nhiệm vụ:  

- Xây dựng lại Đền Thờ (Ê-xê-chi-ên 37:26–28).  

- Mang hòa bình thế giới (Ê-sai 2:4).  

- Quy tụ dân Do Thái về Israel (Ê-sai 11:11–12).  

Jesus không thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào trong số này. Thay vì ở lại để lãnh đạo và hoàn thành các lời tiên tri, câu chuyện về sự thăng thiên biến ông ta thành một nhân vật siêu nhiên, rời bỏ trần thế – một hình ảnh hoàn toàn xa lạ với khái niệm Đấng Mê-si của Do Thái giáo.

---

📌 5. Tái lâm ? Một cách chữa cháy cho những lời tiên tri chưa thành.

Tuyên bố của Kitô giáo:  Chúa Jesus sẽ trở lại để hoàn tất các lời tiên tri mà Ngài chưa thực hiện trong lần đến đầu tiên.  

Sự thật:  Kinh Do Thái không bao giờ đề cập đến khái niệm “hai lần đến” của Đấng Mê-si. Ý tưởng này là một giải pháp hậu kỳ của Kitô giáo để giải thích tại sao Jesus không hoàn thành các nhiệm vụ cốt lõi của Đấng Mê-si, như mang hòa bình thế giới hay xây dựng lại Đền Thờ.  

Nói cách khác, “tái lâm” giống như một lời hứa “phần hai” để cứu vãn một câu chuyện chưa hoàn chỉnh. Trong khi đó, Kin Do Thái mô tả Đấng Mê-si hoàn thành mọi nhiệm vụ trong một lần đến, không cần “tập tiếp theo.”

---

💥 Đấng Mê-si thực sự phải làm gì ?

Hãy xem những gì Kinh Do Thái thực sự nói về Đấng Mê-si – những điều Kitô giáo hiếm khi đề cập:  

📖 **Giê-rê-mi 23:5** – Là hậu duệ của David, một vị vua con người, không phải thần thánh.  

📖 **Ê-sai 2:4** – Thiết lập hòa bình toàn cầu, chấm dứt chiến tranh.  

📖 **Xa-cha-ri 14:9** – Thống nhất nhân loại trong việc thờ phượng Một Thiên Chúa.  

📖 **Ê-xê-chi-ên 37:26–28** – Xây dựng lại Đền Thờ ở Jerusalem

📖 **Ê-sai 11:11–12** – Quy tụ toàn bộ dân Do Thái từ khắp nơi về Israel

📖 **Ê-sai 11:6–9** – Chấm dứt mọi đau khổ, tạo ra một thế giới hài hòa.  

Jesus không thực hiện bất kỳ điều nào trong số này. Thay vì hoàn thành các lời tiên tri, Kitô giáo đã viết lại chúng, biến một vị vua trần thế thành một á thần trên mây, cai trị từ thiên đàng và đe dọa hỏa ngục cho những ai không tin.

---

🤔  Chuyện gì đã xảy ra ?

Kitô giáo đã thực hiện một cuộc “tái định hướng” táo bạo: lấy những câu Kinh Do Thái, tách chúng khỏi ngữ cảnh, và gán ghép vào một câu chuyện mới về Chúa Jesus. Họ nói với người Do Thái: “Các người không hiểu sách của chính mình,” thậm chí còn tuyên bố rằng Thiên Chúa đã “làm mù mắt” họ để không nhận ra “sự thật” của Tân Ước.  

Điều này giống như ai đó lấy nhật ký cá nhân của bạn, viết thêm một chương giả tưởng, và tuyên bố đó mới là câu chuyện thực sự của bạn. Từ một Đấng Mê-si trần thế, lãnh đạo dân tộc và mang hòa bình đến Jerusalem, Kitô giáo đã biến Jesus thành một vị thần vũ trụ, cai trị từ thiên đàng với quyền phán xét sinh tử.  

Để ngăn chặn sự nghi ngờ, họ thêm khái niệm “lửa hỏa ngục” – một hình phạt không hề tồn tại trong Kinh Do Thái – như cách để giữ bạn trong sự sợ hãi và tuân phục.  

Hàng tỷ người ngày nay vẫn tin vào câu chuyện này, bởi họ chỉ được dạy “Cựu Ước” qua lăng kính của nhà thờ, nơi các câu Kinh bị bóp méo để phục vụ thần học Kitô giáo. Từ nhỏ, bạn được nghe “Chúa Jesus chết vì bạn,” gieo vào tâm trí cảm giác tội lỗi và sự phụ thuộc, ngay cả khi bạn chưa từng đọc Kinh Do Thái để hiểu ngữ cảnh thực sự.

---

Đọc Kinh Do Thái với đôi mắt không bị che mờ bởi lăng kính Kitô giáo. Bạn sẽ thấy rằng nó không nói về Jesus, mà kể về một Đấng Mê-si trần thế, mang hòa bình và công lý cho thế gian. Đừng để những lời tiên tri cổ xưa bị biến thành công cụ của một câu chuyện khác. Hãy tìm hiểu sự thật, và tự hỏi: Liệu bạn có đang tin vào một phiên bản đã bị tái định hướng của lịch sử thiêng liêng?

St

Chienslambao.blogspot.com




CẦU CHÚA BAN PHƯỚC NHƯNG CÓ ĐƯỢC CHÚA BAN PHƯỚC HAY KHÔNG MỚI LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG.

 Kitô giáo đã rèn luyện tín đồ của mình từ bỏ khả năng tư duy phản biện và nhìn nhận mọi sự kiện như một sự khẳng định cho niềm tin của họ. Đây là một hình thức kiểm soát tâm trí, và hầu hết các tín đồ không nhận ra rằng họ đã bị mắc kẹt trong cơ chế này.

Cầu nguyện và đạt được điều bạn mong muốn ? Chúa đã đáp lời bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! 

- Không đạt được điều đó ? Ngài có kế hoạch khác cho bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! - Không tìm được câu trả lời ? Bạn không cần phải hiểu. Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! - Tìm ra câu trả lời ? Ngài đã chọn bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! - Đau buồn vì mất người thân ? Họ đang ở một nơi tốt đẹp hơn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! - Buồn bã vì cuộc sống khó khăn ? Bạn sẽ hạnh phúc sau khi rời khỏi trần thế . Hãy ca ngợi Chúa Jesus ! .

Thực sự, khi mọi câu hỏi đều được trả lời bằng điều khiến bạn cảm thấy dễ chịu nhất, được an ủi nhất, và ít phải sử dụng trí tuệ của mình nhất, điều đó chẳng phải là một dấu hiệu cảnh báo rõ ràng rằng bạn đang thiếu đi sự khách quan sao ? Những quan sát này không phải là những nhận định sâu sắc, thông minh hay đặc biệt mới mẻ, và tôi cũng không phải là người đầu tiên đề cập đến chúng. Nhưng với tư cách là một người sống hơn nửa đời người, từ bỏ và có kiến thức về Kitô giáo, thì việc tranh luận với các người biện hộ Kitô giáo có lẽ là ngây thơ, và dường như không thực sự cần thiết khi những tiền đề cơ bản nhất của niềm tin tôn giáo đã đầy rẫy những mâu thuẫn không thể dung hòa. Những mâu thuẫn này giải thích tại sao việc truyền bá tôn giáo phải bắt đầu từ khi còn rất nhỏ, và đáng buồn thay, chúng cũng giải thích tại sao thế giới lại rơi vào tình trạng đáng tiếc như hiện nay: bởi chúng khiến con người trở nên thành thạo trong việc hợp lý hóa những điều phi lý, tin vào những điều khó xảy ra, và biện minh cho những hành vi trái đạo đức.

Như Sam Harris từng nói, điều này giống như chơi quần vợt mà không có lưới. Nó giải thích tại sao các tín đồ Kitô giáo thường trở nên sùng đạo hơn sau khi trải qua thiên tai hay bệnh tật nghiêm trọng – họ đã được rèn luyện để nhìn mọi thứ, dù tốt hay xấu đều dẫn đến sự hoàn thành niềm tin của họ. Đây là một công cụ cực kỳ hiệu quả để Nhà thờ duy trì đám đông tín đồ như những chú cừu không tư duy, biết rằng dù không có hàng rào, họ cũng sẽ không lạc lối.

St

Chienslambao.blogspot.com



Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

BẠN SUY NGHĨ GÌ KHI XUNG QUANH MÌNH CÓ RẤT NHIỀU NGƯỜI SỐNG CÓ ĐẠO ĐỨC MÀ KHÔNG CẦN ĐẾN CHÚA?

 CẢI ĐẠO - RỦA TỘI LÀ LIỀU THUỐC AN THẦN CHO ĐỨC TIN MONG MANH DỄ VỠ.

Tín đồ Công giáo Việt Nam thường hay nói họ muốn bạn được cứu. Nghe thì có vẻ cao cả, nhưng nếu gỡ lớp áo thánh thiện ấy ra, bên trong chỉ là một nỗi sợ đơn thuần: sợ người khác sống tốt mà không cần chúa.

Họ không cải đạo bạn vì lòng trắc ẩn, họ cải đạo bạn vì bạn quá nỗi bình thường. Bạn sống vui vẻ, tử tế, có đạo đức mà chẳng cần lần chuỗi mân côi hay đi xưng tội. Và chính điều đó mới là thảm họa thần học. Bởi nếu có một người sống ngay thẳng mà không cần chúa, thì hóa ra hệ thống “duy chúa mới là sự sống” của họ đang thở oxygen nồng độ cao từng ngày.

Thế nên, để cứu lấy cảm giác an toàn đó, họ lao vào cải đạo. Họ rao giảng, ép uổng, năn nỉ, thậm chí khóc lóc, không phải vì bạn đang lạc lối, mà vì chính họ không dám nhìn thấy một ai bước đi thẳng thắn ngoài biên giới nhà thờ. Bạn là cái gai chọc vào niềm tin vốn được chắp vá bằng giáo điều và sợ hãi.

Thực ra, cải đạo chẳng khác gì một hành vi phòng vệ tâm lý. Khi đức tin không đủ sức đứng một mình, họ phải kéo thật nhiều người cùng đứng quanh cho đỡ chênh vênh. Bạn không bước vào, thì cái vòng tròn chân lý tuyệt đối của họ cứ lỏng lẻo mãi, và họ sợ cái lỏng lẻo đó hơn cả hỏa ngục.

Cải đạo không phải là ánh sáng mà là cái bóng của một nỗi lo. Họ không mời bạn vào thiên đàng vì bạn xứng đáng, họ chỉ sợ mình lỡ ngồi trên bàn tiệc mà phải nhìn xuống thấy bạn cười ngoài rìa. Để bữa tiệc thánh được ngon miệng, họ cần bạn nhập hội, nếu không thì ám ảnh lắm.

Bạn nghĩ mình được yêu thương ư? Không đâu. Bạn chỉ là chi tiết cuối cùng cần nhét vào để bức tranh niềm tin khỏi bị lệch. Bạn là phép thử họ không muốn làm, là hiện tượng lạ cần đưa về bình thường, vì nếu không, họ sẽ phải đặt lại một câu hỏi mà họ đã được dạy là không được phép hỏi.

Bạn không phải người cần cứu, bạn là nhân chứng sống cho một điều cấm kỵ: rằng người ta vẫn có thể tử tế mà không có chúa.

Và đó là lý do họ phải cải đạo bạn, không để bạn được lên thiên đàng, mà để họ được yên thân.

St

Chienslambao.blogspot.com




PHÂN TÍCH NHÂN VẬT GIÊSU TRONG CÂU CHUYỆN XỨC DẦU THƠM, MÁC-CÔ CHƯƠNG 14 - ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ TỰ HUYỄN.


🟥 1. Bênh vực việc hoang phí thay vì giúp người nghèo

 • Một cân dầu cam tùng (nard) nguyên chất có giá 300 denarii, tức gần 1 năm lương của một người lao động thời đó.

 • Giuđa đưa ra một ý kiến hoàn toàn hợp lý: dùng tiền đó giúp người nghèo.

 • Nhưng Giêsu gạt bỏ lập luận đạo đức thực tế, để bảo vệ việc xức dầu thơm lên thân thể mình như một hành vi “tôn kính”.

🔻 Điều này phản ánh sự vị kỷ và tâm lý giáo chủ tự tôn: đặt vinh danh cá nhân lên trên nhu cầu của người khốn khổ.

🟥 2. Ngụy biện “các người sẽ luôn có người nghèo”

 • Câu nói: “Người nghèo lúc nào các ngươi cũng có” – là một ngụy biện mang tính định mệnh học, giống như “vì nghèo là chuyện tất yếu nên đừng quá lo”.

 • Điều này chống lại toàn bộ tinh thần yêu thương người nghèo mà chính Giêsu từng giảng trong các đoạn khác (như Matthêu 25:31–46, “chiên và dê”).

🔻 Nó thể hiện sự mâu thuẫn: một mặt kêu gọi yêu thương người nghèo, mặt khác chính mình chấp nhận hành động ngược lại vì bản thân.

🟥 3. Tâm lý giáo chủ hoang tưởng: xem mình là trung tâm của sự tôn kính đến mức người khác phải tắm hương thơm để chuẩn bị chôn cất mình

 • Giêsu nói: “Cô ấy làm việc này để chuẩn bị cho ngày chôn cất Ta”.

 • Tức là trong khi những người xung quanh đang sống nghèo khổ, thì anh ta tự cho rằng việc được xức dầu như vua chúa là xứng đáng, vì… sắp chết?

🔻 Đây là biểu hiện của dạng thần thoại hóa bản thân – tin rằng sự chết của mình là quá vĩ đại nên cần chuẩn bị xức dầu như một nghi lễ hoàng gia.

🟥 4. Tấn công gián tiếp người có lương tâm đạo đức

 • Một số Phúc Âm (như Matthêu và Máccô) cho thấy nhiều môn đệ bất bình, chứ không riêng gì Giuđa.

 • Nhưng tác giả Gioan đổ lỗi riêng cho Giuđa, người sắp phản bội Giêsu, như một cách bôi đen lập luận hợp lý bằng thủ thuật nhân cách hóa (ad hominem).

🔻 Điều này phản ánh tâm lý giáo phái: ai không phục vụ sự tôn sùng lãnh tụ thì bị gán cho là kẻ xấu.

📌 Kết luận súc tích:

Khi có người nghèo đói ngay trước mắt, nhưng bạn lại bảo người ta đem gần một năm lương mua dầu thơm để xức chân mình, thì đó không còn là yêu thương – đó là sự tự tôn giáo chủ ngụy trang bằng đức tin.

Giêsu không chọn người nghèo – anh ta chọn vinh danh bản thân.😁😁😁

St

Chienslambao.blogspot.com






PHƯƠNG TÂY TRÂN QUÝ GIÁ TRỊ PHẬT GIÁO . TÂY BAN NHA SẼ XÂY DỰNG KHU PHỨC HỢP PHẬT GIÁO, CÓ TƯỢNG PHẬT LỚN NHẤT ÂU CHÂU.

  (España acogerá al Buda más grande de Europa )    Mô hình dự án do Lumbini Garden Foundation cung cấp. Một khu phức hợp Phật giáo độc đáo ...