Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2025

CÓ NÊN TIN SỐ PHẬN DO TRỜI ĐỊNH?

 Mỗi con người khi trải qua cuộc đời, họ có những định mệnh riêng. 

Ví dụ ông A lên máy bay vào ngày đó, giờ đó và chết vì sự cố máy bay.

Nếu ông A này có thờ thằng jesus hay thằng chúa trời jehova thì ông A vẫn phải chết.

Thằng chúa không hề can thiệp vào định mệnh của ông A được, vì nếu thằng jehova can thiệp vào chỗ định mệnh được thì con nữ tu sĩ gọi là sơ Hằng nó chết vì cây cầu Phong Châu sập và con sơ rơi tỏm xuống mất xác.

Không thể giải thích kiểu lấp liếm của đám linh mục chó, đám linh mục cho rằng " chúa tiếp rước, chúa gọi về " 

vậy tao hỏi sao đám linh mục chúng mày biết đó là ý của thằng chúa ? chúa thánh thần hiện ra nói mày nghe à ?

khi các bạn đưa ra những lập luận sắc bén, đám linh mục chó trả lời " con người không thể hiểu hết ý chúa " , hoặc " chúa không thể làm theo ý con người "

Vậy lũ chiên choá chúng mày cầu nguyện, chúng mày làm chứng " chúa đã ban ơn cho tôi " vậy thằng thiên chó jehova làm theo ý chúng mày xin rồi còn gì ?

Đám linh mục cho rằng ý thiên chúa không hiểu hết vậy chúng mày giải thích kinh thánh theo nghĩa bóng, theo ý ẩn dụ chúng mày dựa vào đâu ??

sao đám linh mục chó chúng mày biết thằng chúa ý nó ẩn dụ chỗ đấy ??

Kinh thánh thiên chó jehova của do thái mặc khải cho đám cùng đinh, chúng nó ghi ra, sau đó chuyển qua nhiều ngôn ngữ để dụ lũ ngu, thằng thiên chó jehova nó mặc khải chỗ nào sách nào về cách giải kinh ???

Thời thằng jesus đi giảng đạo, bị túm cổ treo lên thì thằng nào dạy thần học ???

Tại sao kinh thánh mặc khải lấp liếm, và chỉ để đám linh mục giải kinh ???

Tiêu chuẩn đạo đức, chỉ cần dạy và người nghe hiểu.

Chienslambao.blogspot.com



Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2025

ĐẠO PHẬT và KHOA HỌC


Khi nói đến Đạo Phật và khoa học thì các Phật tử thường rất tự hào, họ thường thuộc nằm lòng những câu như "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng...", (Phật nhìn vào chén nước thì thấy có đến 84 nghìn con vi trùng) hay trong kinh mô tả về sự rộng lớn của vũ trụ với vô lượng các thế giới có chúng sinh đang sống, hoặc nói về các hạt vi trần cấu tạo nên thế giới, rồi các quy luật vô thường, nhân quả...được giới trí thức khen ngợi, nhất là lời nhận định của nhà vật lý lý thuyết lừng danh Albert Einstein. Những điều trên đã khiến cho không ít người ngoại đạo không vui, một số cho rằng Đạo Phật chỉ nói lại một số quan niệm của Đạo Bà La Môn, một số khác thì châm biếm Đạo Phật tự hào là đạo của khoa học nhưng không phải là nơi bắt nguồn cho cách mạng công nghiệp, hay những nhà khoa học lỗi lạc nhất đều xuất phát từ nền văn hóa và tôn giáo Kitô. Trong bài viết này tôi không đi vào tranh luận để phản biện những quan điểm trên, mà đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này mà thôi.

Hơn 2500 năm trước khi mà nhân loại còn chìm đắm trong các quan điểm siêu hình về thế giới quan, người ta tin rằng mọi thứ tồn tại vận động đều do ý muốn của thần linh. Dựa trên ý tưởng này các nhà lãnh đạo thiết lập lên hệ thống chính trị thần quyền để chứng minh rằng việc cai trị của mình là do thiên mệnh sắp đặt, theo đó mỗi một giai cấp trong xã hội giàu nghèo hay sang hèn đều là ý muốn của thần linh nên ai phải yên phận nấy, sự an phận này có thể giúp họ đổi lấy một đời sống tốt đẹp hơn ở kiếp sau...khắp nơi từ Á sang Âu nơi nào con người cũng ít nhiều tin và cam chịu số phận như vậy. Có thể nói thần linh, thần quyền là một sản phẩm đặc trưng của xã hội loài người thời cổ đại. Ngày nay quan niệm này tuy chưa mất hẳn nhưng gần như đã bị thay thế bởi hệ thống luật pháp tiến bộ và đạo đức xã hội, nơi mà mọi quyết định của chính quyền bắt buộc phải dựa trên ý chí và lợi ích của người dân chứ không phải là thần thánh nữa. Chúng ta gọi xã hội như vậy là dân chủ, là tiến bộ.

Quay trở lại 2500 năm trước, một vị hoàng tử ở miền bắc Ấn Độ vì không chấp nhận được đời sống sinh - già - bệnh - chết đầy đau khổ bởi sắp đặt của thần linh, ngài đã chọn một con đường mới, con đường nhìn thấu sự thật, trả lại cho vạn vật sự thật vốn có của nó mà không chấp nhận sự can thiệp của bất kỳ một ý tưởng nào để tô vẽ thêm cho thực tại đó. 

Trong khi mọi hệ thống chính trị, tôn giáo, học thuật...thời bấy giờ đều chọn cách tạo nên một ý tưởng để buộc thế giới thực tại phải giải thích dựa trên ý tưởng đó. Đó là Nho giáo với học thuyết về Thiên mệnh và Nhân trị cố gắng xây dựng một xã hội lý tưởng dựa trên ý trời và đạo đức; Ấn Độ giáo với ý tưởng về một Đại Phạm Thiên tồn tại vĩnh cửu, bao trùm và sinh thành hoại diệt vạn vật; xã hội Hy Lạp - La Mã thì dựa trên luật pháp và triết học kết hợp thần thoại; còn hệ thống độc thần giáo Do Thái - Kitô, Islam thì quy cho mọi thứ đều bắt nguồn từ thượng đế và dựa vào đó để giải thích thế giới. Giữa thế giới đầy rẫy tiếng nói dựa trên các quan điểm khác nhau này, hình ảnh Đức Phật với tiếng nói "Duyên sinh vô ngã" chính là tiếng nói của sự giác ngộ, tiếng nói của sự thật. 

Tiếng nói đó không xuất phát từ quan điểm cá nhân áp đặt lên thế giới, mà là tiếng nói của người đã nhìn thấu bản chất của thế gian và cả sâu thẳm tâm hồn mình. 

Duyên sinh vô ngã là gì?

Xin thưa: đó là vạn sự vạn vật đều có nguyên nhân và vô số điều kiện tạo thành, cả vũ trụ là một bức tranh ghép khổng lồ, nơi mà mỗi mảnh ghép đều có liên quan chặt chẽ không thể tách rời với những mảnh còn lại. Cụ thể hơn mỗi một sự vật hiện tượng đều được tạo nên bởi sự vật hiện tượng khác, ví dụ như: Ông sinh ra cha, cha sinh ra con, con lại sinh ra cháu...hay cây cháy thành tro, tro trở thành đất, đất lại nuôi vạn vật....rồi nước bốc hơi thành mây, mây lại sinh ra mưa, mưa tạo nên sông hồ, biển cả...như vậy rõ ràng chẳng có ai hay sự vật hiện tượng nào tự mình tồn tại mà không cần đến những điều kiện khác. Sự thật này nghe rất đơn giản nhưng phải mất hàng ngàn năm nhân loại mới nhận ra và chấp nhận nó, và đây cũng là lúc vai trò của thần linh dần khép lại, ít nhất là trong giới tinh hoa của xã hội. 

Tiếng nói của Duyên sinh vô ngã đồng nghĩa với việc mọi thứ cần được giải thích rõ ràng nguồn gốc thay vì tưởng tượng rồi áp đặt quan điểm như thiên mệnh, số kiếp, Chúa quan phòng...rõ ràng xã hội hiện đại của chúng ta được xây dựng dựa trên khám phá ra sự thật về mọi thứ. Bất kỳ một thành quả khoa học công nghệ nào hôm nay mà chúng ta sử dụng, góp phần xây dựng thế giới văn minh đều bắt nguồn từ nỗ lực khám phá, phân tích, chấp nhận sai lầm, sửa chữa sai lầm chứ không bắt nguồn từ cầu nguyện, phó thác cho thần linh và bảo thủ tư tưởng, cố chấp niềm tin. 

Đối với Đạo Phật thế giới luôn vận động và biến chuyển không ngừng, và bản tâm của mỗi người cũng vậy. Để không trì trệ mê lầm chúng ta cần phải liên tục update hành vi thân tâm của mình để bắt kịp với thực tại đang diễn ra, thuật ngữ đặc trưng của Đạo Phật là phá chấp, vô sở trụ, thực tại hiện tiền, hoặc chánh niệm tỉnh giác. Sự tiến bộ của loài người cũng vậy, nó đến từ sự nỗ lực khám phá sự thật và không ngừng thay đổi, cập nhật cái mới chứ không chấp nhận cái cũ sai lầm, lỗi thời...theo đó xã hội Nho giáo đã lỗi thời, xã hội Hy Lạp - La Mã đã lỗi thời, xã hội đẳng cấp của Bà La Môn đã lỗi thời, xã hội đức tin phó thác của các độc thần giáo đã lỗi thời, thế nhưng xã hội nào dựa trên việc khám phá và ứng dụng sự thật thì không bao giờ lỗi thời. 

Tuy vậy Đạo Phật vẫn không hoàn toàn song hành với khoa học, vì đơn giản khoa học vẫn còn có mặt trái của nó, khi nhân loại phát minh ra một sản phẩm hay công nghệ gì tiến bộ thì đồng nghĩa với việc mặt trái của nó xuất hiện, bệnh tật nhiều hơn, thiên tai nhiều hơn, ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên nhiều hơn là những mặt trái đặc trưng của xã hội hiện đại. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ làm đời sống vật chất của con người ngày càng cải thiện nhưng con người ngày nay có thật sự hạnh phúc hơn con người của 10 ngàn năm trước không? Không ai dám trả lời chắc chắn cả.

Mục đích lớn nhất của sự tồn tại là tìm kiếm hạnh phúc và hạn chế khổ đau, chúng ta dù có đang làm gì thì cũng không ngoài hai mục đích này (trốn khổ tìm vui) sự tiến bộ của khoa học tuy dựa trên sự thật nhưng cũng không bao giờ giải quyết được nhu cầu trên, bởi vì đơn giản nó vẫn tiếp tục tạo ra đau khổ mới. 2000 năm trước chúng ta không có điện thoại xịn để xài chưa chắc chúng ta đã khổ vì thiếu thốn nó, nhưng 2000 năm sau nhân loại phải khốn đốn vì những hệ lụy của nó rất nhiều, vì nó có người phải bán 1 quả thận, có người phải cướp giật, lừa đảo, vì nó nhiều người nghiện game và mạng xã hội...đó là lợi ích và tác hại như âm và dương luôn song hành với nhau. 

Chính vì điều này mà Đạo Phật không hoàn toàn đi cùng với khoa học hay sự tiến bộ vật chất. Mà mục đích khám phá ra sự thật của Đạo Phật là để con người không còn sống trong ảo tưởng, tôn trọng mọi thứ như nó là. 

- Hãy nhớ Đạo Phật không góp phần làm cho khoa học tiến bộ nhưng Đạo Phật góp phần làm cho khoa học hạnh phúc. 

- Hãy là một người làm khoa học hạnh phúc chứ đừng tìm kiếm hạnh phúc đằng sau thành quả của khoa học. 

Cùng là theo đuổi sự thật để nhân loại tốt đẹp hơn, nhưng khoa học chỉ đạt được một nửa mục đích và tạo ra một nửa vấn đề cần giải quyết. Còn Đạo Phật khám phá ra sự thật không phải để biết thế giới đi về đâu mà để rõ biết mình là ai, đang hạnh phúc hay khổ đau trong khoảnh khắc này. Cho nên Đạo Phật chưa chắc đã cần tới khoa học nhưng chắc chắn khoa học phải cần đến Đạo Phật để tìm thấy ý nghĩa thật sự trên hành trình của mình, chứ không phải nhắm mắt đi mãi mà không biết sẽ đi về đâu như hiện nay. 

St

Chienslambao.blogspot.com





 



Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

Giáo lý NHÂN QUẢ, NGHIỆP BÁO trong niềm tin PHẬT GIÁO


...

 Giờ đây chỉ cần tra Google một chút thì chúng ta sẽ tìm thấy nhiều thông tin cần thiết. Và muốn tìm hiểu về Giáo lý Nhân Quả, Nghiệp Báo trong đạo Phật thế nào thì cũng chỉ cần vào Google tìm kiếm cũng khá dễ dàng.

- Ở đây chúng ta cần biết là có Nhân Quả hay không ? - Có Nghiệp Báo hay không ? Nếu Nhân Quả Nghiệp Báo có thật thì nên thay đổi cách sống để mình có lợi ích, còn nếu những thứ Nhân Quả Nghiệp Báo này không có thật thì nên bỏ niềm tin chứ không nên bám víu vào những thứ vô nghĩa như thế làm gì !

 Nếu chịu khó quan sát một chút thì chúng ta đều thấy mọi thứ đều xoay vần theo quy luật Nhân Quả. Ví dụ như có hai người lấy nhau thì mới gọi là Vợ chồng, ví dụ như có nắng có gió thì nước mới bốc hơi, ví dụ như có ăn thì mới có no, có gieo thì mới có gặt..v.v..Như vậy thì chẳng có thứ gì đi ngoài Nhân Quả cả !

- Có Nghiệp Báo không ?

Khi bạn nhìn thấy một người quá nghèo, một người quá giàu, một người quá đẹp, một người quá xấu..v.v...Bạn có thắc mắc về chuyện này không ? Tại sao cùng là người mà số phận của mỗi người lại mỗi khác như vậy ? Nếu bạn cho rằng mọi người được sinh ra đời khác nhau như vậy thì đó là do ý của ông Trời hay ông thần nào đó tạo ra thì bạn đang tin vào đám dở hơi rồi đấy ! Tại sao ? Tại vì Trời thần mà như thế thì họ đều là những kẻ bất công , bất tài ! Bất công vì cho người này đẹp mà cho kẻ kia xấu, có phải vậy không ? Bất tài vì họ không thể nào thay đổi được những gì mà họ đã tạo ra trước đó dù đã được người ta cầu nguyện van xin đủ điều ! 

 Đức Phật đã dạy rất rõ ràng về Nghiệp Báo để giải thích tại sao có kẻ sang người hèn, tại sao lại có người đẹp kẻ xấu... Đức Phật đã dạy :"Chúng sanh (có Con người) tạo ra Nghiệp rồi thừa tự Nghiệp, chúng sanh (có Con người) có nguồn gốc từ Nghiệp, chúng sanh ( có Con người) từ Nghiệp sinh ra....". Sự diễn giải về Nghiệp rất rõ ràng của Đức Phật đã cho chúng ta có cái nhìn thỏa đáng về số phận Sang Hèn Đẹp Xấu của những con người đang sống quanh mình, chính họ đã tự tạo ra đời sống Xấu hay Tốt này của họ bằng những Nghiệp lành hay Nghiệp xấu từ những kiếp trước đây của họ chứ chẳng phải Trời thần nào ban cho họ cả. 

  Đức Phật dạy rằng :" Khi lời nói hay việc làm nào "có chủ ý, có tác ý " thì sẽ tạo ra Nghiệp, rồi cứ tạo liên tục thì cái Nghiệp đó sẽ lớn mạnh lên, rồi chính cái Nghiệp lớn mạnh đó sẽ đưa mình tái sinh vào cõi nào tương ứng với nó... Hàng ngày chúng ta đã tác ý vào từng lời nói việc làm rồi tạo ra vô số Nghiệp lành hay Nghiệp xấu cho mình... Nay đã có thể kiểm nghiệm lời Phật dạy không sai thì chúng ta nên chủ động chọn lựa từ hành vi cho đến lời nói của mình sao cho thiện lành để có cái Nghiệp lành Nghiệp tốt. Tạo được Nghiệp lành Nghiệp tốt thì sẽ có Báo lành Báo tốt. Có Báo lành Báo tốt thì mình mới thật sự là sống có trách nhiệm với mình trong đời này và cả những đời sau !

...

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 

....

Chienslambao.blogspot.com



 


Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

19 LÝ DO TẠI SAO CHÚA KHÔNG TỒN TẠI : LOGIC - KHOA HỌC & BẰNG CHỨNG.


HÀNG NGÀN NĂM QUA, con người đã tin vào Chúa. Nhưng khi đức tin bị thử thách bởi lý trí, khoa học và bằng chứng, ý niệm ấy bắt đầu sụp đổ. Trong bài phân tích này, chúng ta sẽ khám phá 19 lý do mạnh mẽ — từ những lời cầu nguyện không được đáp lại và những câu Kinh Thánh mâu thuẫn, đến sự tàn khốc của thiên nhiên và sự im lặng của các vì sao — những lý do này tiết lộ tại sao niềm tin vào Chúa không phù hợp với thực tế. Các bạn hãy bình tĩnh, rõ ràng và chân thành — không hề chế giễu, chỉ có sự thật.

HÀNG NGÀN NĂM QUA, tôn giáo đã định hình sự hưng thịnh và suy vong của các nền văn minh. Nó đã mang đến cho con người hy vọng trong tuyệt vọng, trật tự trong hỗn loạn, và ý nghĩa khi đối mặt với đau khổ. Nhưng cốt lõi của tất cả các tôn giáo đều nằm ở một tuyên bố cao cả, sự tồn tại của một vị thần. Tuyên bố này không hề nhỏ bé. Nó không phải là sở thích cá nhân như việc chọn một cuốn sách hay một bản nhạc yêu thích. Đó là tuyên bố táo bạo nhất trong lịch sử, rằng có một đấng toàn năng, toàn tri, vô hình, thống trị Vũ Trụ.

Nếu tuyên bố đó là đúng, nó sẽ để lại bằng chứng rõ ràng, logic vững chắc và những dấu hiệu không thể chối cãi. Nhưng nếu thiếu những bằng chứng đó, thì thứ còn lại của chúng ta không phải là chân lý, mà là niềm tin được xây dựng trên nền tảng mong manh.

Trong bài này, chúng ta sẽ từng bước tìm hiểu hơn 10 lý do mạnh mẽ tại sao ý tưởng về Chúa sụp đổ khi được kiểm chứng bằng lý trí, khoa học và bằng chứng, cũng như tôi đã đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể tại sao Chúa Cha và Chúa Con không tồn tại. Bài này không có sự cường điệu, chế giễu, hay thiếu tôn trọng, chỉ có suy nghĩ sáng suốt, phân tích bình tĩnh và tìm kiếm sự trung thực. Chúng ta hãy bắt đầu.

⭐️ LÝ DO THỨ 1 : Những lời cầu nguyện không đáp lại

Qua nhiều thế kỷ, hàng tỷ người đã cầu nguyện trong các đền thờ, nhà thờ và thánh đường Hồi Giáo, cầu xin sự giúp đỡ trong những lúc cần thiết. Họ cầu xin sự chữa lành, sự an toàn, sự dẫn dắt. Vậy mà, thế giới vẫn đầy rẫy những tiếng kêu than không được đáp lại. Người bệnh chết bất chấp những lời cầu nguyện tuyệt vọng. Người vô tội đau khổ trong khi kẻ có tội vẫn sống khỏe mạnh. Nếu Chúa nghe thấy, tại sao sự im lặng lại là câu trả lời duy nhất ? Một số người cho rằng những lời cầu nguyện được đáp lại theo những cách bí ẩn. Nhưng khi mọi kết quả đều có thể được định nghĩa lại là kế hoạch của Chúa, thì từ "trả lời" mất hết ý nghĩa. Thay vào đó, những gì chúng ta thấy là một vũ trụ chuyển động, thờ ơ với những lời thì thầm của con người.

⭐️ LÝ DO THỨ 2 : Thánh thư mâu thuẫn

Nếu chỉ có một Chúa, tại sao nhân loại lại có hàng ngàn tôn giáo, mỗi tôn giáo đều tuyên bố chân lý thiêng liêng ? Kinh sách mâu thuẫn nhau về sáng tạo, đạo đức, và bản chất của thần thánh. Hai văn bản không thể cùng là lời bất khả ngộ của Chúa nếu chúng bất đồng về những tuyên bố cơ bản. Những gì chúng ta thấy không phải là một tiếng nói chân lý, mà là vô số tiếng nói của con người, mỗi tiếng nói được định hình bởi văn hóa, lịch sử và trí tưởng tượng.

⭐️ LÝ DO THỨ 3 : Sự ẩn dấu của Chúa

Nếu một vị Chúa thực sự tồn tại và muốn được mọi người biết đến, chẳng phải bằng chứng sẽ rõ ràng cho tất cả mọi người thấy sao ? Thay vào đó, Chúa ẩn mình, im lặng và vô hình. Người ta bảo tín đồ phải có đức tin, nhưng đức tin lại được đòi hỏi chính xác bởi vì bằng chứng còn thiếu. Tuyên bố phi thường nhất trong lịch sử không dựa trên bằng chứng, mà dựa trên sự vắng mặt của nó. Tại sao một đấng được cho là đã tạo ra Vũ Trụ lại chọn đóng vai trò của một bóng ma, luôn ngoài tầm với, luôn ngoài tầm kiểm chứng ?

⭐️ LÝ DO THỨ 4 : Vấn đề đau khổ

Nhìn vào thiên nhiên, đâu đâu chúng ta cũng thấy sự đau khổ đã ăn sâu vào hệ thống nhân loại. Động vật săn mồi xé xác con mồi. Bệnh dịch, bệnh tật tàn phá sự sống của muôn loài. Thiên tai hủy diệt cả một cộng đồng. Nếu một vị thần toàn năng và nhân hậu, tại sao sự tàn ác lại được thêu dệt vào chính cấu trúc của sự tồn tại ? Câu trả lời rằng đau khổ là một thử thách sụp đổ khi chúng ta nhận ra rằng hàng tỷ động vật vô tội đã phải chịu đựng đau khổ từ rất lâu trước khi con người xuất hiện. Nỗi đau không phải là một tai nạn trên thế giới này. Nó là một đặc điểm. Nhà thiết kế nào lại xây dựng nên một Vũ Trụ như thế này ?

⭐️ LÝ DO THỨ 5 : Sự bao la của Vũ Trụ

Vũ Trụ chúng ta biết chứa hàng nghìn tỷ thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỷ ngôi sao (là mặt trời, là “sun”, không phải hành tinh như người Việt dùng chữ sai lầm). Vậy mà các văn bản tôn giáo được viết trên một hành tinh nhỏ bé hàng nghìn năm trước lại khẳng định rằng Đấng Tạo Hóa đã tạo ra tất cả những thứ này chỉ để dành cho con người. Quy mô của Vũ Trụ khiến niềm tin đó không chỉ kiêu ngạo mà còn phi lý. Chúng ta chỉ là một hạt bụi nhỏ trên một hạt bụi khác quay quanh một ngôi sao (Mặt Trời) bình thường trong một thiên hà bình thường. Nghĩ rằng Vũ Trụ được thiết kế với chúng ta là trung tâm là hiểu sai về sự bao la mà chúng ta đang sống.

⭐️ LÝ DO THỨ 6 : Sự im lặng của lịch sử.

Nếu một vị thần thực sự dẫn dắt nhân loại, lịch sử sẽ phơi bầy dấu ấn thần thánh rõ ràng. Nhưng thay vào đó, những gì chúng ta thấy chỉ là sự hỗn loạn, chia rẽ và xung đột bất tận về việc ai là người đại diện cho Chúa. Chiến tranh nổ ra nhân danh Ngài, máu đổ vì những diễn giải, cải cách, ly giáo và giáo phái, tất cả đều tuyên bố quyền năng thần thánh. Đây không phải là câu chuyện về một vị thần dẫn dắt nhân loại. Đây là câu chuyện về việc con người tự tạo ra các vị thần để dẫn dắt chính họ.

⭐️ LÝ DO THỨ 7 : Sự tiến hóa, không phải sự sáng tạo.

Trong nhiều thế kỷ, tôn giáo cho rằng con người được tạo ra một cách đột ngột và đặc biệt. Rồi khoa học khám phá ra một sự thật sâu sắc hơn. Chúng ta là sản phẩm của quá trình tiến hóa, được định hình bởi “chọn lọc tự nhiên” qua hàng tỷ năm. DNA của chúng ta mang dấu ấn không phải của một đấng sáng tạo hoàn hảo, mà là của những quá trình mù quáng đầy thử nghiệm và sai sót. Chúng ta có chung gen với loài vượn, với cá, với thực vật. Những câu chuyện sáng tạo từ xa xưa đã sụp đổ trước bằng chứng hiển nhiên này.

⭐️ LÝ DO THỨ 8 : Sự thay đổi đạo đức của tôn giáo.

Đạo đức tôn giáo thay đổi theo thời gian. Những gì từng bị coi là tội lỗi sau này lại được coi là bình thường. Những gì từng được biện minh bởi kinh thánh, chế độ nô lệ, bất bình đẳng, sự tàn ác, giờ đây bị lên án. Nếu đạo đức của Chúa là vĩnh cửu, tại sao nó lại tiến hóa theo văn hóa ? Sự thật là đạo đức đến từ con người, được hình thành bởi sự đồng cảm, lý trí và tiến bộ xã hội, chứ không phải từ mệnh lệnh của Chúa.

⭐️ LÝ DO THỨ 9 : Sự đa dạng của các vị thần.

Nếu niềm tin vào Chúa là tự nhiên và hiển nhiên, nhân loại đã có thể khám phá ra cùng một Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy mà lịch sử lại cho thấy hàng ngàn vị thần, từ Zeus đến Odin, từ Rah đến Vishnu. Mỗi thế hệ đều gạt bỏ các vị thần cũ như những huyền thoại trong khi vẫn bám víu vào chính nó. Chủ nghĩa vô thần thực chất chỉ là đi xa hơn một vị thần, từ chối tin vào bất kỳ vị thần nào.

⭐️ LÝ DO THỨ 10 : Sổ số sự ra đời

Nếu Chúa là có thật và sự cứu rỗi phụ thuộc vào việc biết Ngài, thì nơi bạn sinh ra không nên quyết định số phận vĩnh cửu của bạn. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy hầu hết mọi người đều tin vào bất kỳ tôn giáo nào chi phối nơi họ sinh ra. Một đứa trẻ sinh ra ở Ấn Độ có thể là người theo đạo Hindu. Một đứa trẻ sinh ra ở Saudi Arabia có thể là người theo đạo Hồi. Một đứa trẻ sinh ra ở Ý có thể là người theo đạo Thiên Chúa. Hàng tỷ người thừa hưởng niềm tin giống như cách họ thừa hưởng ngôn ngữ hay quần áo. Nếu Chúa thực sự muốn nhân loại biết một chân lý, tại sao chân lý đó lại bị phân tán theo cách mà địa lý quyết định niềm tin hơn là bằng chứng ?

⭐️ LÝ DO THỨ 11 : Sự im lặng trong bi kịch

Khi thiên tai ập đến, động đất, chiến tranh, nạn đói, các tín đồ kêu cầu sự giúp đỡ của Chúa. Vậy mà hết lần này đến lần khác, những bàn tay cứu giúp người đau khổ lại là bàn tay con người. Bác sĩ, tình nguyện viên, hàng xóm, người lạ. Nếu Chúa can thiệp, tại sao Ngài không xuất hiện ở nơi Ngài cần thiết nhất ? Nếu tình yêu Chúa là có thật, tại sao thế giới được tái thiết không phải bằng phép lạ, mà chỉ bằng nỗ lực của con người ?

⭐️ LÝ DO THỨ 12 : Sự không hoàn hảo của cơ thể con người.

Nếu con người là tạo vật đặc biệt của một vị thần hoàn hảo, tại sao cơ thể chúng ta lại đầy khiếm khuyết ? Cột sống dễ gẫy, mắt dễ mù, răng dễ sâu. Chúng ta ngạt thở vì thức ăn và không khí cùng đi chung một đường thực quản chỉ bởi một lưỡi gà. Chúng ta dễ mắc phải vô số bệnh tật, đột biến và yếu đuối. Đây không phải là dấu hiệu của một thiết kế hoàn hảo. Chúng là dấu vết của quá trình thử nghiệm và sai sót vụng về trong quá trình tiến hóa.

⭐️ LÝ DO THỨ 13 : Toàn năng của Chúa luôn bị thu hẹp lại.

Xuyên suốt lịch sử, Chúa đã được dùng để giải thích những điều chưa biết. Khi sấm sét gầm rú, đó là cơn thịnh nộ của Chúa. Khi bệnh tật ập đến, đó là sự trừng phạt của Chúa. Nhưng khi khoa học phát triển, những khoảng trống đã được thu hẹp. Chúng ta khám phá ra điện, vi trùng và các quy luật tự nhiên. Với mỗi khám phá, Chúa lại càng thu hẹp khoảng trống của sự vô minh. Vị thần của những khoảng trống ngày càng nhỏ lại và rồi một ngày nào đó sẽ biến mất.

⭐️ LÝ DO THỨ 14 : Công lý thiêng liêng không bao giờ đến.

Tôn giáo hứa hẹn công lý ở thế giới bên kia. Kẻ ác sẽ bị trừng phạt. Người tốt được tưởng thưởng. Nhưng trong cuộc sống này, công lý hiếm hoi, không đồng đều, và thường không có. Kẻ ác chết thanh thản trên giường. Người vô tội chết trong đau đớn tột cùng. Nếu công lý của Chúa là có thật, tại sao nó luôn bị trì hoãn đến một thế giới vô hình ? Đó là công lý hay chỉ là một câu chuyện được kể để xoa dịu nỗi sợ hãi của chúng ta ?

⭐️ LÝ DO THỨ 15 : Những mâu thuẫn của sự toàn năng.

Các triết gia đã vật lộn với điều này hàng thế kỷ. Liệu Chúa có thể tạo ra một hòn đá nặng đến mức Ngài không thể nhấc nổi không ? Liệu Ngài có thể tạo ra một hình vuông hình tròn không ? Nếu không, Ngài không phải là Đấng Toàn Năng. Nếu Ngài có thể, chính logic cũng sụp đổ. Toàn Năng, khi được xem xét kỹ lưỡng, không phải là một ý tưởng mạch lạc. Nó là một từ nghe có vẻ ấn tượng nhưng lại bị lý trí bẻ gẫy.

⭐️ LÝ DO THỨ 16 : Vấn đề “ý chí tự do” và “sự hiểu biết trước”.

Những người tin Chúa nói rằng Chúa ban cho chúng ta “ý chí tự do”, nhưng họ cũng nói rằng Chúa biết tất cả mọi thứ, cả quá khứ lẫn tương lai. Nếu Chúa đã biết mọi lựa chọn chúng ta sẽ đưa ra, thì ý chí tự do chỉ là ảo tưởng. Chúng ta là những nhân vật đang đọc một kịch bản đã được viết sẵn. Hoặc là Chúa không biết tương lai, hoặc là chúng ta không có tự do. Cả hai đều không thể đúng. Hãy đọc lý luận này nhiều lần sẽ giúp bạn giải thoát sự thắc mắc đơn giản này

⭐️ LÝ DO THỨ 17 : Sự im lặng của các vì sao.

Trong nhiều thập kỷ, con người đã quan sát bầu trời, lắng nghe tín hiệu của sự sống thông minh. Chúng ta đã lập bản đồ các thiên hà, thăm dò các rìa không gian và khám phá những chân lý vũ trụ. Vậy mà, chẳng nơi nào chúng ta tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện thiêng liêng đang theo dõi chúng ta. Bầu trời vẫn mênh mông, trống rỗng, tĩnh lặng. Điều chúng ta khám phá ra là một Vũ Trụ được điều khiển bởi vật lý, chứ không phải bởi bàn tay của một vị thần ẩn giấu.

⭐️ LÝ DO THỨ 18 : Nguồn gốc của tôn giáo con người.

Về cốt lõi, mỗi tôn giáo đều mang dấu ấn của nền văn hóa đã tạo ra nó. Tôn giáo sa mạc tưởng tượng ra sa mạc ở thiên đường và địa ngục. Tôn giáo nông nghiệp ca ngợi mùa màng và sự phì nhiêu. Các bộ lạc chiến binh tưởng tượng ra các vị thần chinh phục và máu. Đây không phải là chân lý phổ quát. Chúng là những câu chuyện của con người được sinh ra từ thời gian, không gian và trí tưởng tượng.

⭐️ LÝ DO THỨ 19 : Gánh nặng chứng minh.

Cuối cùng, chúng ta phải đối mặt với điểm quan trọng nhất. Những tuyên bố phi thường đòi hỏi bằng chứng phi thường. Tuyên bố rằng có một vị Chúa đã tạo ra Vũ Trụ, đang theo dõi mọi sự sống, lắng nghe mọi suy nghĩ và hoạch định mọi vận mệnh là tuyên bố phi thường nhất từng được đưa ra. 

Tuy nhiên, bằng chứng cho điều đó không lớn hơn bằng chứng về Zeus, Thor hay Rah. Gánh nặng chứng minh không nằm ở người hoài nghi mà nằm ở người có đức tin.

Và khi không có bằng chứng, niềm tin sụp đổ. Những lý do này không đến từ sự tức giận hay chế giễu. Chúng đến từ hành động đơn giản là nhìn nhận thế giới một cách trung thực, từ những lời cầu nguyện không được đáp lại đến những câu Kinh Thánh mâu thuẫn, từ sự tàn nhẫn không cần thiết đến sự im lặng của các vì sao. Bằng chứng không hướng đến bàn tay thần thánh, mà hướng đến trí tưởng tượng của con người và quy luật tự nhiên.

Tôn giáo đã cho chúng ta những câu chuyện. Nó cho chúng ta những nghi lễ, biểu tượng và huyền thoại đã đưa tổ tiên chúng ta vượt qua những thời kỳ đen tối. Nhưng tuyên bố về Chúa, tuyên bố rằng có một đấng cai trị thực tại, không thể tồn tại khi so sánh với logic, khoa học và bằng chứng. Điều còn lại là lòng can đảm để vượt qua niềm tin, đối mặt với một vũ trụ không có đấng tối cao cai quản, và tìm kiếm ý nghĩa không phải trong những câu chuyện được kể cho chúng ta, mà trong sự thật mà chúng ta tự khám phá.

Chúng ta nhỏ bé, đúng vậy ! Mong manh, đúng vậy ! Nhưng trong hành trình tìm kiếm sự thật, chúng ta cũng mạnh mẽ. Bởi sự thật không đòi hỏi đức tin. Nó chỉ cần sự trung thực. Và có lẽ cuối cùng, sự trung thực còn vĩ đại hơn đức tin. 🔶

Chienslambao.blogspot.com



Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Khi lý trí bị lu mờ thì cái ác sẽ lên ngôi.


Chúa cha gọi danh là jehova, chính hắn ta tự nhận là khởi đầu mọi sự, thế giới đầy khổ đau, bệnh tật, chiến tranh hắn lại trốn mất.

Jehova lẩn trốn trách nhiệm, thằng linh mục và mục sư mồm miệng bô bô chúa yêu thương thế gian, cứu chuộc thế gian bằng huyết báu của jesus.

Thằng mục sư của tất cả hội thánh, thằng linh mục tất cả các nhà thờ, chưa thằng đéo nào gặp được jesus.

Chúng chỉ tự cảm nhận bằng cách chúa thánh linh, chúa thánh thần đã ở cùng chúng, ở trong lòng chúng, dẫn dắt chúng.

Chúa ngôi thứ 3 đã ấn chứng sự cứu rỗi cho chúng.

Đám khốn nạn này được gọi là " chúa chọn " để chăn bầy chiên, đám chó này đã xâm hại đến trẻ em, chúng chiên không nhận ra sự yếu kém của thằng lựa chọn. Chúng nó giải thích chúa sẽ trừng phạt sau, có phạt nó thì cuộc đời các em nhỏ đã mang một vết thương.

Chúng chiên lâm vào bệnh tật, chúng tìm đến bác sĩ, sau khi được chữa lành, chúng trơ trẽn nhận công về cho chúa, chúa đã dùng bác sĩ chữa bệnh cho nó.

Khi hỏi đến chiến tranh giữa các quốc gia trung đông, chúa của nó không dùng một ai đến dừng chiến tranh, nạn đói châu phi chúa đéo hoá phép cho ăn, lũ lụt ở Việt Nam đéo thấy chúa ra tay, chúng đổ lỗi cho con người, chúa trừng phạt con người.

Đụmẹ maria chửa hoang, thằng jesus hoang tưởng, thằng " chúa thánh thần " ở cùng lũ chiên để nó đi ỉa và ngửi cứt cùng nó.

Chienslambao.blogspot.com




 



Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Thằng hề mang tên Jesus !

 

Đứng giữa thế giới mồm luôn xưng ta là trời, là tạo hoá, đéo có một bằng chứng nào cụ thể. 

Hỏi bằng chứng cả đám chiên chó lật kinh thánh ra, đọc chỗ này dẫn chỗ kia, chúng nó cũng chỉ nghe kể qua kinh thánh. 

Thằng chủ chăn linh mục hay thằng mục sư cũng tin vào điều đó qua trích dẫn từ kinh thánh.

Thế giới hiện sinh vẫn diễn ra, ăn bánh phải trả tiền, đi bác sĩ phải trả tiền, bác sĩ phải học tập rèn luyện để cứu người, nông dân phải đổ mồ hôi để trồng trọt.

Thế mà lũ chiên chó lại đi thờ một thằng đem từ trung đông về, khẳng định nó là cha, là tạo hoá, hỏi bằng chứng đám chó lại lấy cuốn sách cho là thiêng liêng ra đọc đọc chỉ chỉ, đây này Sáng thế ký đây đoạn này câu này, tạo trái đất nè, tạo người nè....

Người ta hỏi sao đoạn này thằng jehova giết người, đoạn này cha ruột ngủ với con gái, em trai ngủ với chị dâu( em trai chịch chị dâu ) chúng nó nói kinh thánh đâu phải ai đọc cũng hiểu, phải có thần học mới giải thích được. 

Thần học chỉ để giải thích cái lol của maria trinh như thế nào giữa chiên tin lầm và công giáo thôi.

Chienslambao.blogspot.com





THIÊN CHÚA JEHOVAH-VỊ THẦN NGHIỆN MÙI MÁU THỊT ĐỘNG VẬT HIẾN TẾ VÀ MÓN THỊT NƯỚNG BBQ.

 

Sách Lê-vi (Leviticus) là nơi ta thấy rõ nhất mức độ man rợ và phi lý của các “nghi thức hiến tế động vật” mà Thiên Chúa trong Kinh Thánh được cho là đã truyền dạy.

Nếu đọc kỹ, ta sẽ thấy Chúa không chỉ cho phép mà còn ra lệnh chi tiết cách giết, mổ, đốt, và rưới máu lên bàn thờ.

Dưới đây là vài đoạn tiêu biểu và phân tích để thấy mức độ tàn bạo của “nghi thức thánh” này.

📜 Một vài ví dụ rợn người trong sách Lê-vi

 1. Lê-vi 1:5–9 – Của lễ thiêu

“Ngươi sẽ giết con bò tơ trước mặt Đức Giê-hô-va; các con trai A-rôn, tức là các thầy tế lễ, sẽ đem máu rưới chung quanh bàn thờ… rồi sẽ chặt xác con sinh làm từng miếng, và thiêu tất cả trên bàn thờ, làm của lễ thiêu, mùi thơm dâng cho Đức Giê-hô-va.”

❌➜ Nghĩa là Chúa thích mùi thịt cháy — đến mức Kinh Thánh lặp đi lặp lại cụm từ “mùi thơm dâng cho Đức Giê-hô-va” hơn 30 lần!

Một vị thần “toàn năng” mà lại cần người ta giết thú và đốt xác để ngửi mùi thơm, thì đó rõ ràng là tư duy của thời cổ man rợ, chứ không phải “Thiên Chúa nhân từ”.

 2. Lê-vi 4:27–31 – Của lễ chuộc tội

“Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, rồi giết nó… Thầy tế lễ lấy máu, bôi lên các sừng bàn thờ, còn phần còn lại thì đổ dưới chân bàn thờ.”

➜ Đây là nghi thức rưới máu và bôi máu – hành vi mang tính ma thuật, không khác gì nghi lễ tế thần của các dân ngoại thời cổ.

 ❌Nó không mang tính đạo đức mà chỉ là bạo lực nghi lễ hóa.

 3. Lê-vi 9:18–21 – Hiến tế bò và chiên

“Chúng giết con bò đực và con chiên… Máu được rưới lên bàn thờ… Mỡ, thận và phần mỡ bọc gan được đốt, còn thịt và da thì đem ra ngoài trại đốt trong lửa.”

❌➜ Toàn bộ là hướng dẫn giết động vật chi tiết hơn cả một sách dạy nấu ăn — nhưng lại được gọi là “lời Chúa”.

⚖️ Phân tích luân lý và thần học

 • Tàn nhẫn với sinh vật:

Cả hệ thống hiến tế dựa trên máu và sự chết. Không có dấu hiệu nào của lòng trắc ẩn hay “yêu thương tạo vật” như tín đồ vẫn ca tụng.

 • Tư duy đổi chác:

Con người phạm tội → phải giết một sinh vật vô tội → Chúa mới “tha thứ”.

Đây là logic tế thần nguyên thủy – kiểu “giết để xoa dịu cơn giận của thần linh”, chứ không phải đạo đức cao siêu nào cả.

 • Tính mâu thuẫn:

Chúa vừa dạy “chớ giết người”, nhưng lại yêu cầu giết hàng loạt động vật “cho mùi thơm”.

Nếu sự sống là thiêng liêng, thì máu của loài vật cũng là sự sống (chính Kinh Thánh nói vậy ở Lê-vi 17:11!).

Vậy mà chính Chúa lại ra lệnh đổ máu liên tục.

💬 Kết luận

Nếu thật đây là “lời Thiên Chúa”, thì ta phải đối diện với một thực tế đáng sợ:

vị thần ấy được thờ bằng máu, xác chết, và mùi thịt cháy — chứ không phải bằng lòng nhân ái.

Còn nếu đọc với con mắt lý trí, thì sách Lê-vi chỉ đơn giản là tài liệu của một tôn giáo du mục cổ đại, nơi người ta tin rằng càng giết nhiều, thần càng vui lòng.

Chienslambao.blogspot.com





Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

TẠI SAO VATICAN CÔNG NHẬN THUYẾT TIẾN HOÁ CỦA KHOA HỌC?

 Các con chiens Việt nên biết là Giáo hoàng John Paul II và Franxico đã công nhận Thuyết Tiến Hóa và Vụ nổ Big Bang trước những bằng chứng bất khả phủ bác của khoa học, có nghĩa là phủ nhận Trúa sáng tạo ra Adam-Eva trong Kinh thánh và kéo theo là Tội Tổ Tông. Đã không có Tội Tổ Tông thì việc Dê xu được cử xuống trần gian và bị xử tử trên cây thập ác để trúa cha tha tội cho nhân loại là sự lừa đảo, kéo theo sự sụp đổ của các tín lý và bí tích khác 

Dù công nhận Thuyết Tiến Hóa và Big bang, nhưng Franxico lại lươn lẹo ngụy biện "Thiên Chúa không phải là một vị thần chế tác hay có phép thần thông, nhưng là Đấng Tạo Hóa đã mang đến cho muôn vật sự sống. Sự tiến hóa trong tự nhiên không mẫu thuẫn với khái niệm về sự tạo dựng trời đất, vì sự tiến hóa cần có sự sáng tạo các sinh thể tiến hóa." như mọi khi. Truyền thống của Kitô giáo đầu tiên là chống đối những phát minh của khoa học nếu mâu thuẫn với kinh thánh, sẵn sàng gây tội ác kể cả việc đưa lên dàn thiêu sống (nhà khoa học Bruno) hay giam cầm đến chết (nhà khoa học Galileo) về việc trái đất quay quanh mặt trời.Sau đó, nếu chống không được trước những sự thật bất khả phủ bác thì công nhận nhưng lại lươn lẹo ngụy biện giải thích với luận điệu ngửi không được. Đây là đạo đức của các "Đức thánh cha" với tín điều nhồi sọ con chiens là Giáo hoàng thì không thể sai lầm.

https://www.washingtonpost.com/news/worldviews/wp/2014/10/28/pope-francis-backs-theory-of-evolution-says-god-is-no-wizard/?noredirect=on&utm_term=.9009011c7d18

http://conggiao.info/thuyet-tien-hoa-va-big-bang-phu-hop-voi-duc-tin-cong-giao-d-27277

Chúa của con chiens làm được gì ngoài việc giải quyết rắm theo linh mục Ngô Phúc Hậu: 

PHẢI CÁM ƠN CHÚA MỖI KHI TA ĐÁNH RẮM 🤣🤣🤣

https://www.youtube.com/watch?v=FZem3sby_MM&t=134s

Thank you!

Chienslambao.blogspot.com




SINH CON TRAI "KIÊNG" 40 NGÀY, SINH CON GÁI "KIÊNG" 80 NGÀY: KHI THẦN BỘ LẠC YAHWEH PHÂN BIỆT GIỚI TÍNH


(Bạn hoa hậu này theo Tin Lành, chỉ đem con dâng cho chúa chứ không rửa "tội tổ tông" Adam eva cho con như bên Công giáo)

📜 1. Luật thanh tẩy sau khi sinh con (mời đọc kinh thánh sách Lê-vi Ký chương 12)


Trong luật Môi-se, phụ nữ sinh con bị xem là “ô uế” và phải trải qua thời kỳ “thanh tẩy máu” trước khi được phép đến Đền Thờ.

Nếu sinh con trai:

 • Ô uế 7 ngày như khi có kinh nguyệt (Lv 12:2).

 • Sau đó phải đợi 33 ngày “để máu được thanh tẩy” (Lv 12:4).

→ Tổng cộng 40 ngày.

Nếu sinh con gái:

 • Ô uế 14 ngày (gấp đôi so với sinh con trai, Lv 12:5).

 • Sau đó phải đợi thêm 66 ngày cho máu được thanh tẩy.

→ Tổng cộng 80 ngày.

Khi mãn thời gian, người mẹ (dù sinh trai hay gái) phải dâng tế lễ chuộc tội và lễ toàn thiêu:

“Một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay chim gáy làm lễ tạ tội.”

(Lv 12:6)

📖 2. Ví dụ minh họa

Nếu một phụ nữ sinh con gái vào ngày 1:

 • Trong 14 ngày đầu, bà bị xem là ô uế hoàn toàn, không được chạm vào đồ thánh hay đến Đền Thờ.

 • Sau đó, bà phải chờ thêm 66 ngày.

→ Đến ngày thứ 80, bà mới được phép bước vào nơi thờ phượng và dâng lễ tạ tội.

⚖️ 3. Ghi chú xã hội – thần học

Luật này cho thấy rõ quan niệm phân biệt giới trong xã hội Israel cổ:

 • Sinh con gái bị coi là ô uế gấp đôi sinh con trai.

 • Kinh Thánh không đưa ra lý do, nhưng nhiều học giả cho rằng nó phản ánh xã hội phụ hệ, nơi sinh con trai được xem là “vinh dự”, còn con gái là “kém phước”.

 • Dù về sau Kitô giáo tuyên bố “mọi người đều bình đẳng trước Chúa”, nhưng chính luật của Yahweh lại khắc sâu bất bình đẳng giới tính ngay từ trong cơ cấu nghi lễ.

🕍 4. Người Do Thái hiện nay có còn giữ luật này không?

Không.

Người Do Thái ngày nay không còn thực hành Lê-vi Ký 12 theo nghĩa đen.

Từ khi Đền Thờ Giêrusalem bị phá năm 70 CN, toàn bộ các luật tế lễ (trong đó có Lv 12) ngừng áp dụng — vì không còn nơi để dâng sinh tế.

Tuy nhiên, họ vẫn giữ một nghi thức thanh tẩy biểu tượng:

🔹 Mikveh – tắm trong nước tự nhiên (hoặc nước chảy) để đánh dấu sự thanh sạch nghi lễ.

Sau khi sinh, phụ nữ Do Thái Chính thống có thể tắm mikveh khi hết máu hậu sản, như một cách “tái hòa nhập đời sống tôn giáo”.

👉 Nhưng mikveh không phải để xóa tội, mà chỉ là nghi thức tinh thần, không còn mang ý nghĩa “ô uế” hay “chuộc tội” như trong Lê-vi ký.

✂️ 5. Trong khi đó, họ vẫn giữ luật cắt bao quy đầu (brit milah)

Điều thú vị là: người Do Thái bỏ luật thanh tẩy phụ nữ, nhưng vẫn giữ nghi thức cắt bao quy đầu cho bé trai vào ngày thứ 8 sau sinh.

Vì sao?

 • Brit milah không phải luật nghi lễ tạm thời, mà là giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và Áp-ra-ham:

“Mọi con trai phải chịu cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh ra.”

(Sáng thế ký 17:9–12)

 • Đây được xem là “dấu hiệu đời đời” của giao ước, nên dù Đền Thờ bị phá hay người Do Thái bị lưu đày, nghi thức này vẫn được duy trì suốt 3000 năm.

Ngày nay, brit milah vẫn được thực hiện trang trọng:

 • Bé trai được cắt bao quy đầu vào ngày thứ 8, dù rơi vào lễ lớn hay ngày Sa-bát.

 • Nghi lễ do mohel (người được huấn luyện tôn giáo và y tế) thực hiện, thường tại nhà hoặc hội đường, kèm lễ đặt tên và chúc phúc.

🧩 6. Kết luận: Sự chọn lọc thần học và tiến hóa xã hội

Người Do Thái đã chọn lọc lại hệ thống luật Môi-se:

 • Giữ những gì được xem là “giao ước vĩnh viễn” (cắt bao quy đầu).

 • Bỏ những gì chỉ là “nghi thức ô uế – thanh sạch” (như Lê-vi ký 12).

 • Và thay thế bằng những nghi thức mang tính biểu tượng nhân bản hơn (mikveh).

Điều này cho thấy tôn giáo Do Thái có khả năng thích nghi: họ dám loại bỏ yếu tố lỗi thời, kể cả những điều được cho là “luật của Chúa”.

💬 Một nghịch lý đáng suy ngẫm

Đạo Do Thái – “đạo cũ” – đã bỏ luật 80 ngày ô uế từ hàng ngàn năm trước.

Còn đạo mới – Kitô giáo – lại giữ khái niệm “tội tổ tông”, và đem trẻ sơ sinh đi rửa tội để “xóa tội do cụ tổ ăn trái cấm”.

Nghĩa là: đạo cũ đã bỏ phần cổ hủ, còn đạo mới lại thêm phần bất công.

https://www.facebook.com/share/1EeN3PkmJw/

Chienslambao.blogspot.com





Thứ Năm, 16 tháng 10, 2025

PHẨM GIÁ CON NGƯỜI KHÁC PHẨM GIÁ CON CHIÊN Ở ĐIỂM NÀO?

 ✝️ “PHẨM GIÁ CON NGƯỜI” – TỪ CHIÊU BÀI CHỐNG CỘNG ĐẾN MÀN XIN LỖI GIẢ TẠO CỦA "THÁNH" GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

I. “Phẩm giá con người” – Lá chắn đạo đức trong cuộc chiến chống cộng

Từ thời Chiến tranh Lạnh, Giáo hội Công giáo La mã, đặc biệt dưới triều giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã biến cụm từ “phẩm giá con người” thành vũ khí ý thức hệ để đối đầu với chủ nghĩa cộng sản.

Trên danh nghĩa, họ nói đến tự do, nhân quyền và tôn trọng con người; nhưng trong thực tế, đó là một chiêu bài chính trị nhằm đánh bóng hình ảnh Vatican như ngọn hải đăng luân lý của phương Tây, đồng thời bôi nhọ các chế độ xã hội chủ nghĩa như những kẻ chà đạp phẩm giá con người.

Thế nhưng, nếu nhìn thẳng vào lịch sử, ta sẽ thấy Giáo hội này chưa bao giờ là người bảo vệ phẩm giá thật sự của con người, mà ngược lại, chính họ là thủ phạm trực tiếp trong vô số tội ác chống lại nhân loại: từ Thập tự chinh, tòa án dị giáo, săn phù thủy, đến ép buộc cải đạo, thuộc địa hóa bằng gươm giáo, và gần đây hơn là các vụ ấu dâm có hệ thống trong hàng giáo sĩ.

Cái gọi là “phẩm giá con người” trong miệng Vatican chỉ là ngôn ngữ ngụy trang, được khéo léo khoác lên chiếc áo thần học, để duy trì ảnh hưởng chính trị trong thế giới hậu hiện đại.

Gioan Phaolô II, người được phương Tây ca tụng là “vị giáo hoàng của tự do”, thực chất đứng về phe các cường quốc tư bản, vận dụng “phẩm giá con người” như vũ khí tuyên truyền chống Liên Xô và khối Đông Âu.

Ông không chỉ ủng hộ Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, mà còn xem chủ nghĩa cộng sản như kẻ thù của Thiên Chúa, biến đức tin thành công cụ chính trị.

Đó không phải là thần học của “tình yêu nhân loại”, mà là một thứ thần học của chiến tuyến – nơi “con người” được tôn vinh khi họ chống cộng, và bị chà đạp khi họ chống lại Giáo hội.

II. Màn “xin lỗi” và phong thánh – Chiến dịch tẩy trắng vĩ đại của Vatican

Đến năm 2000, cùng với làn sóng toàn cầu hóa, Giáo hoàng Gioan Phaolô II lại gây tiếng vang khi công khai xin tha thứ cho “tội lỗi của Giáo hội trong quá khứ”: từ tội diệt chủng, chiến tranh tôn giáo, đến tội đàn áp phụ nữ và người Do Thái.

Nhưng nếu đọc kỹ, ta sẽ thấy ông không hề thừa nhận trách nhiệm cá nhân hay cơ chế, mà chỉ nói chung chung “xin lỗi vì tội lỗi của con cái Giáo hội trong lịch sử”.

Đó là một hành động chính trị tinh vi, mang tính tẩy trắng tập thể, chứ không phải một sự sám hối thật sự.

Ông không hề cải tổ cơ cấu quyền lực, không hề chấm dứt sự bao che cho tội ác, đặc biệt là các vụ ấu dâm trong hàng giáo sĩ đang bùng phát khắp châu Âu và Mỹ thời bấy giờ.

Trái lại, Gioan Phaolô II bảo vệ nhiều linh mục tội phạm, trong đó nổi tiếng nhất là linh mục Marcial Maciel, sáng lập dòng Đạo binh chúa Kitô (Legionaries of Christ) – kẻ bị hàng chục nạn nhân tố cáo ấu dâm và sống hai mặt, nhưng vẫn được Vatican bảo vệ suốt nhiều năm.

Những nạn nhân kêu cứu, ông im lặng.

Khi báo chí điều tra, ông làm ngơ.

Và khi Giáo hội bị dồn vào thế bí, ông xuất hiện với lời “xin lỗi” mơ hồ – một màn diễn của PR tôn giáo được dàn dựng cẩn thận.

Thế nhưng, điều trớ trêu nhất lại xảy ra sau khi ông qua đời:

Vatican phong thánh cho ông vào năm 2014, chỉ 9 năm sau khi chết – một tốc độ kỷ lục trong lịch sử hiện đại của Giáo hội.

Sự kiện này được rao giảng như “vinh quang của Giáo hội”, nhưng thực chất là đỉnh điểm của chiến dịch tẩy trắng di sản chính trị và đạo đức.

Họ biến một người bị cáo buộc bao che tội ác thành biểu tượng thánh thiện, để hợp pháp hóa toàn bộ lịch sử của mình:

“Nếu vị giáo hoàng đó là thánh, thì những sai lầm dưới thời ông ta chẳng còn đáng nói nữa.”

Thực ra, đây là chiến lược “thần thánh hóa quyền lực” đã được Giáo hội sử dụng suốt hàng thế kỷ:

 • Khi bị chỉ trích, họ nói “con người yếu đuối, nhưng Giáo hội thánh thiện”.

 • Khi cần xoa dịu dư luận, họ tung ra một “lời xin lỗi” tập thể.

 • Và khi muốn chôn vùi sự thật, họ phong thánh cho kẻ đã tạo ra vấn đề.

Tất cả được thực hiện nhân danh “phẩm giá con người”, nhưng cái “phẩm giá” ấy chỉ được dùng để tô son cho quyền lực của chính họ.

Họ không xin lỗi để chuộc lỗi, mà để làm sạch hình ảnh; không phong thánh để tôn vinh lòng nhân, mà để rửa tội cho lịch sử của chính mình.

Kết luận

Cụm từ “phẩm giá con người” của Vatican không phải là nền tảng luân lý, mà là một công cụ chính trị – truyền thông.

Gioan Phaolô II không phải là “vị thánh của nhân loại”, mà là vị thánh của một hệ thống quyền lực cần được tẩy trắng.

Một tôn giáo từng thiêu sống người khác vì “dị giáo”, từng che giấu ấu dâm vì “giữ danh Chúa”, từng dùng “phẩm giá” để chống cộng nhưng lại phủi tay trước nỗi đau của chính nạn nhân mình, thì không có quyền rao giảng về nhân phẩm.

Đó không phải là thần học của tình yêu, mà là thần học của quyền lực –

một thần học được viết bằng nước mắt, máu và sự im lặng của những người mà họ gọi là “con chiên”.


Tác giả: AI.

Chienslambao.blogspot.com




Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

Vì Sao Kinh Thánh Không Phải Là Bằng Chứng?

 

Khi bị cáo buộc rằng Kitô giáo thiếu bằng chứng, các tín đồ Kitô thường giơ Kinh Thánh lên như một lời đáp trả. Tuy nhiên, từ góc nhìn logic và khoa học, Kinh Thánh không phải là bằng chứng đáng tin cậy. Nó chỉ là một văn bản tôn giáo, không đáp ứng các tiêu chuẩn lịch sử, khảo cổ hay khoa học nghiêm ngặt.

Hầu hết những người vô thần như tôi đều dựa vào bằng chứng thực nghiệm. Điểm tranh cãi lớn nhất là các văn bản tôn giáo như Kinh Thánh. Nếu Kinh Thánh được công nhận là một tài liệu lịch sử khách quan và chính xác, thì tôi sẽ chấp nhận. Nhưng thực tế lịch sử, khảo cổ học và khoa học cho thấy điều ngược lại: đây là sản phẩm của niềm tin, không phải ghi chép sự kiện.

 ◇ Lý Do Kinh Thánh Không Được Xem Là Sách Lịch Sử Đáng Tin Cậy

- Được viết muộn màng sau các sự kiện : Các câu chuyện trong Kinh Thánh không được ghi chép bởi nhân chứng đương thời, mà được biên soạn và chỉnh sửa bởi nhiều tác giả qua hàng thế kỷ. Không còn bản gốc nào tồn tại, chỉ có các bản sao chép lặp lại sau này, dễ bị lỗi và thay đổi. Các nhà sử học ưu tiên tài liệu đương đại – như bia đá, thư từ, biên niên sử hoặc hiện vật từ thời kỳ đó. Ví dụ, chúng ta tin tưởng hồ sơ, tài liệu thời La Mã về các hoàng đế vì chúng được quan chức đế chế ghi chép ngay lúc xảy ra, không phải hàng trăm năm sau.

- Trộn lẫn thần thoại, huyền thoại và thần học : Kinh Thánh kết hợp thơ ca, luật lệ, truyền thuyết với một phần lịch sử. Mục đích chính của nó là củng cố niềm tin và bản sắc tôn giáo, chứ không phải ghi chép sự kiện một cách khách quan như sử gia hiện đại dùng các tài liệu lưu trữ thực thụ (như hồ sơ tòa án, danh sách thuế, sắc lệnh hoàng gia hay hiệp ước) mang tính thực tiễn cao, tập trung vào sự kiện pháp lý, chính trị hoặc kinh tế – không nhằm truyền cảm hứng đạo đức hay niềm tin.

- Thiếu xác nhận từ nguồn bên ngoài : Những câu chuyện lớn như Cuộc Xuất Hành, Đại Hồng Thủy của Nô-ê hay tường thành Jericho sụp đổ thì không có bằng chứng khảo cổ hay khoa học nào hỗ trợ. Ngay cả khi khảo cổ xác nhận một số chi tiết (như vua Hezekiah hay quan tổng trấn Pontius Pilate), chúng chỉ chứng minh bối cảnh lịch sử rộng lớn, không phải phép lạ hay tuyên bố thần học. Tài liệu lịch sử chân thực thường được xác nhận chéo từ nhiều nguồn độc lập: bia khắc, hồ sơ của các quốc gia khác, hiện vật chiến trường hoặc đồng tiền. Nếu một sự kiện chỉ tồn tại trong một văn bản duy nhất mà không để lại dấu vết bên ngoài, các nhà sử học sẽ giữ thái độ hoài nghi – đây là nguyên tắc cơ bản để tránh thiên kiến.

- Mâu thuẫn với khoa học hiện đại : Trái Đất không chỉ tồn tại 6.000 năm, không có lớp địa chất  chứng minh lũ lụt toàn cầu, và sự sống tiến hóa qua hàng tỷ năm. Địa chất học, sinh học và thiên văn học hiện đại bác bỏ hoàn toàn cách đọc theo nghĩa đen. Tài liệu lịch sử đáng tin cậy phải phù hợp với bằng chứng tự nhiên rộng lớn hơn. Các ghi chép của Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà hoặc La Mã phù hợp với địa chất, định tuổi bằng carbon phóng xạ và văn hóa vật chất. Chúng không đòi hỏi phải viết lại vật lý, địa chất hoặc sinh học cho phù hợp.

Các nhà sử học, khảo cổ học và khoa học gần như đồng thuận: Kinh Thánh là tài liệu tôn giáo, không phải kho lưu trữ lịch sử dựa trên bằng chứng. Nó lưu giữ một số ký ức về con người và địa danh thực tế, nhưng đầy rẫy truyền thuyết và yếu tố thần học. Không có bằng chứng độc lập, bạn không thể dùng nó làm chứng cứ thuyết phục – đó là lập luận vòng tròn, nơi văn bản tự chứng minh chính mình mà không cần kiểm chứng bên ngoài.

Tôi không phản đối ai đó tin vào thần linh, nhưng khi họ khẳng định có "bằng chứng" từ Kinh Thánh, điều đó thật sự đáng lo ngại. Phân tích dựa trên bằng chứng giúp làm rõ lý do tại sao người vô thần không coi các văn bản tôn giáo như vậy là chứng cứ.

Hơn nữa, nếu một vị thần thực sự muốn tương tác với nhân loại và gửi "con trai" mình mang thông điệp thiêng liêng, thì việc ghi chép các sự kiện ấy phải chắc chắn tuyệt đối: lời chứng nhân chứng trực tiếp, nhất quán và không thể bác bỏ. Nhưng Kinh Thánh không phải như vậy – nó đầy mâu thuẫn nội tại, thiếu nguồn gốc rõ ràng và không đáp ứng tiêu chuẩn logic cơ bản. Nếu Kinh Thánh là sản phẩm được thần linh truyền cảm hứng, thì vị thần đó đã thất bại thảm hại trong việc đảm bảo tính xác thực và thuyết phục cho hậu thế. Một đấng toàn năng đáng lẽ phải làm tốt hơn thế.

Chienslambao.blogspot.com
https://www.facebook.com/share/v/1CstAWZ6tX/




THIÊN CHÚA TRONG KINH THÁNH CƠ ĐỐC LÀ MỘT VỊ THẦN CHIẾN TRANH TRONG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI DO THÁI GIÁO.

Thiên chúa của các chiên thực chất chỉ là một vị thần bộ lạc hư cấu của Israel, sao không thể chế giễu?

Yahweh là tên riêng của Chúa trong Kinh Thánh Hebrew, được coi là tên riêng của Thiên Chúa trong Do Thái giáo. Ban đầu là một vị thần chiến tranh và thời tiết trong các tín ngưỡng cổ đại, ông sau này đã trở thành vị thần dân tộc của người Israel và Judah, và cuối cùng được xác định là vị thần tối cao duy nhất trong Do Thái giáo. Tên gọi này được hình thành từ bốn phụ âm tiếng Hebrew là YHWH, được gọi là Tetragrammaton. 

Nguồn gốc ban đầu: Yahweh ban đầu được tôn thờ ở những vùng như Seir, Edom, Paran và Teman, sau đó được liên kết với Canaan.

Đặc điểm trong Kinh Thánh cổ: Trong các văn bản Kinh Thánh sớm nhất, Yahweh có các đặc điểm của một vị thần chiến tranh và thời tiết, chẳng hạn như làm cho đất đai màu mỡ và dẫn dắt các đội quân thiên thượng chống lại kẻ thù của người Israel.

Sự phát triển tín ngưỡng: Ban đầu, người Israel cổ đại là đa thần, họ thờ phụng Yahweh cùng nhiều vị thần khác của Canaan như El, Asherah và Baal. Về sau, các vị thần như El và Yahweh được kết hợp lại, và các danh hiệu trước đây dành cho El, như El Shaddai, được chuyển sang cho Yahweh.

Sự phát triển thành Do Thái giáo: Khi Yahwism phát triển thành Do Thái giáo, tín ngưỡng đa thần dần dần được thay thế bằng tín ngưỡng độc thần, và Yahweh được tôn vinh là vị thần sáng tạo và là thần duy nhất đáng thờ phụng.

Chienslambao.blogspot.com





 


Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

CHÚA TẠO RA CON NGƯỜI HAY CON NGƯỜI TẠO RA CHÚA?

 Hãy thử nghĩ xem, chẳng phải thật kỳ lạ khi vị Chúa được mô tả trong Kinh Thánh lại mang đậm nét con người đến vậy ? Vị thần này, đôi khi thậm chí quá giống con người. Người Kitô giáo có thể nói: “Không phải Chúa giống chúng ta, mà là chúng ta giống Chúa, bởi Chúa đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của Ngài.” Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan nhất, hãy tự hỏi: Liệu một vị Chúa hoàn hảo lại có thể mang những đặc điểm rất con người như sự ghen tuông, cáu giận, phân biệt chủng tộc, kỳ thị đồng tính, hay sự đãng trí, do dự trong quyết định (như cuộc đối thoại với Lot), những toan tính chính trị, sự nhỏ nhen, thiếu kiên nhẫn, và hành động bốc đồng ? (Tôi có thể trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh cho từng đặc điểm này.)

 Hay thực tế hơn , vị Chúa này chẳng phải “Thần” gì cả, mà chỉ là một sản phẩm do con người tạo ra, chẳng khác gì Zeus, Thor hay bất kỳ vị thần nào khác ? Hơn nữa, nếu hình ảnh vị thần này trong Kinh Thánh là chính xác, liệu bạn có thực sự muốn được tạo ra theo hình ảnh của một kẻ khát máu, diệt chủng ,tàn sát dân tộc khác ? (Nếu bạn muốn vậy , xin chúc mừng vì bạn thật " đặc biệt" ! )

Một vị thần chân chính sẽ không cần phải bộc lộ những cảm xúc con người -những thứ bắt nguồn từ sự hạn chế về tri thức, quyền năng, kỹ năng và điều khiển sự điềm tĩnh ở con người. Ngược lại, một vị thần do con người sáng tạo ra sẽ mang những đặc điểm nhỏ nhen, thiển cận của chính những người đã nghĩ ra nó. Liệu vị thần mà bạn tôn thờ có thực sự là đấng tối cao, hay chỉ là tấm gương phản chiếu những giới hạn và dục vọng của con người ?

Chienslambao.blogspot.com




Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

🌹 NGUỒN GỐC THẬT SỰ CỦA LỄ “ĐỨC MẸ MÂN CÔI” 7/10

(Một ngày lễ phát xuất từ chiến thắng quân sự đẫm máu, chứ không phải phép lạ tôn giáo)

🕰️ 1. Bối cảnh lịch sử: Trận Lepanto (1571)

 • Ngày 7/10/1571, xảy ra Trận hải chiến Lepanto giữa:

• Liên minh Công giáo (Holy League) do Giáo hoàng Piô V lập ra, gồm: Tây Ban Nha, Venice, và các lực lượng Công giáo khác;

• Chống lại Đế quốc Ottoman (Hồi giáo).

 • Mục tiêu: ngăn chặn người Ottoman mở rộng kiểm soát Địa Trung Hải.

 • Kết quả: Liên minh Công giáo thắng lớn.

→ Đây là một chiến thắng quân sự, không phải “phép lạ tôn giáo”.

🙏 2. Cách Công giáo gắn cho chiến thắng này ý nghĩa “Mẹ Mân Côi”

 • Trước trận chiến, Giáo hoàng Piô V kêu gọi toàn thể tín đồ cầu nguyện bằng tràng chuỗi Mân Côi để “xin Đức Mẹ ban cho chiến thắng”.

 • Sau khi nghe tin thắng trận, ông cho rằng Đức Mẹ đã can thiệp, nên tuyên bố:

“Chiến thắng này là nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi.”

 • Từ đó, ông thiết lập ngày lễ “Đức Mẹ Chiến Thắng” (Our Lady of Victory) vào ngày 7 tháng 10 năm 1572.

 • Sau này, Giáo hoàng Grêgôriô XIII đổi tên thành “Lễ Đức Mẹ Mân Côi” (Feast of Our Lady of the Rosary), để gắn trực tiếp với biểu tượng chuỗi Mân Côi.

⚔️ 3. Bản chất thật sự của ngày lễ

Nếu nhìn đúng lịch sử, “Đức Mẹ Mân Côi” 7/10 thực chất:

 • Là ngày kỷ niệm chiến thắng quân sự của liên minh Công giáo trước quân Hồi giáo;

 • Là một lễ chiến thắng chính trị – quân sự được khoác áo tôn giáo, chứ không phải kỷ niệm một sự kiện mạc khải hay phép lạ;

 • Và biểu tượng “Mân Côi” được dùng như biểu tượng vũ khí thiêng liêng trong cuộc chiến “chống ngoại đạo”.

📜 4. Một số chi tiết thú vị

 • Họa sĩ và văn nhân châu Âu thế kỷ 16–17 mô tả Đức Mẹ như “Nữ tướng chỉ huy trên biển Lepanto”, bên dưới là xác quân Ottoman — một hình ảnh cực kỳ bạo lực và mang tính tuyên truyền tôn giáo.

 • Nhà thơ G.K. Chesterton (người Công giáo) sau này viết bài thơ Lepanto (1911) ca ngợi Đức Mẹ đã “đánh bại người Thổ”.

 • Nhưng với người ngoài, lễ này mang tính thánh hóa chiến tranh tôn giáo, chẳng khác gì một “lễ kỷ niệm thánh chiến”.

📉 5. Kết quả thương vong thật sự của trận Lepanto

Trận Lepanto là trận hải chiến đẫm máu nhất thế kỷ 16 — nơi hàng chục ngàn người chết nhân danh “Đức Tin”.

Chienslambao.blogspot.com






Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

“Phép lạ Lộ Đức” là màn kịch bịp bợm của Vatican và chính quyền hoàng gia Pháp năm 1858

 LẠI NÓI VỀ PHÉP LẠ LỘ ĐỨC.

“Phép lạ Lộ Đức” là màn kịch bịp bợm của Vatican và chính quyền hoàng gia Pháp năm 1858:

Tác phẩm “The Great Apparitions of Mary” của Ingo Swann (The Crossroad Publishing Co., NY 1996) kể chuyện Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp năm 1958 (trang 69-84) như sau :

Lourdes (Lộ Đức) là một thị trấn nhỏ trên sườn núi phía bắc của dẫy Pyrénées. Vào giữa thế kỷ 19 thì thị trấn này chỉ có khoảng 300 dân, hầu hết đều nghèo khổ vì thị trấn này không có một nguồn lợi kinh tế nào cả. Các thị trấn lân cận đều khá vì có nhiều suối nước nóng thu hút du khách và kiếm lời do việc khai thác kỹ nghệ nước suối có muối kháng (mineral waters). Tại Lộ Đức có một vách đá dốc đứng cao như ngọn tháp có tên là Massabielle, trong vách đá có một cái hang lớn (a grotto). Chính nơi đây đã được Vatican tuyển chọn để diễn màn kịch bịp bợm.

Nhân vật chính của màn kịch này là cô bé Bernadette. Cô sinh năm 1844, là con gái đầu của 8 anh chị em. Cha mẹ là ông Fracois và bà Louise Soubirous. Khi cô bé Bernadette lên 8 tuổi thì cha bị tai nạn mù mắt trái và bị thất nghiệp. Cả gia đình lâm vào cảnh sống cùng quẫn. Khi cô bé lên 11 tuổi thì cô bị bệnh thổ tả và bệnh suyễn trầm trọng. Cha cô bị bắt về tội trộm. Em trai cô tên Jean Marie đói quá nên chạy đến nhà thờ ăn cắp cây đèn cầy bằng sáp để ăn, chẳng may bị cha xứ bắt gặp và bị cha hăm bỏ tù. Vào đầu tháng 2 năm 1858, lúc gia đình cô sắp chết đói thì mẹ cô được một bà nhà giàu mướn làm đầy tớ (a servant). Do sự xếp đặt của bà chủ nhà giầu này, với sự đồng ý của cha mẹ, cô bé được chỉ dẫn đến hang đá Massabielle. Lúc này cô bé lên 14 tuổi, nhưng mù chữ vì chưa được đi học ngày nào.

Ngày 11 tháng 2 năm 1858, cô Bernadette cùng với một đứa em gái và một đứa bạn tên Jeanne Abadie đến hang đá Massabielle. Một mình cô đến qùi trước cửa hang một lúc rồi cô nói cho em gái và đứa bạn biết là cô đã nhìn thấy “một cô gái đẹp trong ánh sáng mờ”

Sau khi trở về nhà, em của Bernadette kể chuyện cho mẹ, còn cô bạn Jeanne Abadie đi khắp thị trấn loan tin Bernadette đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra tại hang Massabielle. Chỉ hai tuần sau, cả thị trấn Lourdes qui tụ một đám đông tín đồ Công Giáo lên tới 8,000 người và họ rủ Bernadette cùng đi với họ đến hang đá Massabielle. Khi tới nơi, chỉ có một mình Bernadette nói là có nhìn thấy “một cô gái đẹp” còn tất cả mọi người khác đều không thấy gì cả ! Mặc dầu vậy, tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức đã lan nhanh khắp nơi như một đám cháy rừng.

Ngày 25 tháng 3 năm 1858, vào lúc 5 giờ sáng, cha mẹ Bernadette đánh thức con gái dậy để cùng đi với một đám đông tín đồ đến hang đá Massabielle. Sau khi qùi một mình trước hang đá một lúc, cô bé Bernadette dõng dạc tuyên bố với mọi người : Cô bé đã hỏi “cô gái đẹp” là ai, thì cô gái đẹp đó trả lời: “Ta là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the Immaculate Conception). Kể từ đó, hàng ngày có nhiều tín đồ Công Giáo đến hang đá Massbielle để lần chuỗi Mân Côi. Sau đó, có khoảng 50 người tự nhận là có nhìn thấy “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ở trong hang, nhưng không một ai đưa ra bằng chứng nào cả !

Vì lý do những sinh hoạt bất thường của đám đông giáo dân ở Lourdes có thể gây nhiều chuyện bất an ninh, nên cảnh sát địa phương đã làm hàng rào cản không cho giáo dân kéo đến Massabielle mỗi ngày mỗi đông. Sự việc này được báo cáo lên hoàng đế Napoléon III. Nhà vua đã đích thân ra lệnh cho cảnh sát ở Lourdes phải rỡ bỏ tất cả các rào cản đó để cho các tín đồ được tự do đến viếng hang đá Massabielle.

Năm 1862, giám mục Laurance cai quản địa phận Tabres chính thức công bố thư luân lưu xác nhận “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là Mẹ Chúa Trời đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858 và những lần kế tiếp, tổng cộng 18 lần cả thảy. Tòa Giám Mục cho phép sự tôn thờ “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” tại hang đá Lộ Đức trong địa phận. Từ 1858, mọi phương tiện truyền thông của nước Pháp được vận dụng tối đa để quảng bá khắp nơi về “phép lạ” Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Song song với mọi nỗ lực tuyên truyền và quảng cáo, cựu bộ trưởng tài chánh Pháp là Achille Toul vận động với hãng xe lửa Southern Railway Company làm đường xe lửa nối liền thành phố Tarbes với Lourdes. Các công ty xây dựng đổ xô đến Lourdes xây cất rất nhiều khách sạn, nhà hàng và các phương tiện du lịch.

Những tín đồ cuồng tín luôn luôn tung tin đồn rằng Đức Mẹ Lộ Đức đã chữa cho nhiều người khỏi bệnh khi họ đến nơi đây cầu khấn với Đức Mẹ. Tuy nhiên, họ đều không biết rằng: nhân vật chính của “phép lạ Lộ Đức” là cô bé Bernadette đã chết lúc 32 tuổi (16-4-1879) vì bệnh suyễn, bệnh sưng phổi và lao xương. 

Nếu Đức Mẹ có quyền năng làm phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, tại sao Đức Mẹ không chữa bệnh cho người có công nhất với Đức Mẹ trong việc tuyên xưng Người là “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ? Một điều mỉa mai ai cũng thấy là ở Lộ Đức người ta treo đầy những chiếc nạng của những người què (giả vờ), nhưng tuyệt nhiên chưa từng có một người cụt tay, cụt chân nào được Đức Mẹ chữa lành cả !


Tác giả: Trần Tiên Long. Nguồn: sachhiem.net





Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

KHÔNG TIN VÀO SỰ TỒN TẠI CỦA CHÚA CÓ TỘI KHÔNG?

 Không Tin Chưa Bao Giờ Là Tội Lỗi

Trong Kitô giáo, người ta cho rằng không tin vào đức Chúa trời hay "Chúa" Jesus là tội lỗi nghiêm trọng nhất mà một người có thể phạm phải, và thậm chí, điều đó dẫn đến hình phạt kinh khủng nhất có thể tưởng tượng. Quan niệm này hoàn toàn vô lý.

Tôi chưa bao giờ hiểu được tại sao trong tôn giáo, việc đơn thuần không tin vào Chúa lại bị coi là tội lỗi. Bạn có thể chỉ đang sống cuộc đời mình, không làm hại bất kỳ ai hay bất cứ điều gì, nhưng chỉ vì bạn không tin vào một điều rất cụ thể, bạn bỗng nhiên đáng bị trừng phạt. Điều này thật sự phi lý.

Vấn đề của tôi không chỉ nằm ở việc hình phạt kéo dài vô tận. Nhiều nhà triết học hoài nghi đã đặt câu hỏi: “Làm sao có thể biện minh cho một hình phạt vô hạn đối với một tội lỗi hữu hạn ?” Đó là một câu hỏi hoàn toàn hợp lý, nhưng tôi muốn đặt một câu hỏi khác 

Làm sao có thể biện minh cho BẤT KỲ hình phạt nào đối với một hành động không phải là tội lỗi ?

Dù chỉ là một cái đánh nhẹ vào bàn tay, tại sao tôi lại phải chịu hình phạt đó ? Tôi không phạm tội. Khi tôi ngừng tin vào Chúa, tôi không giết người, không trộm cắp, không làm tổn thương bất kỳ ai hay bất cứ điều gì. Tôi chẳng làm gì sai cả. Điều duy nhất tôi làm là thay đổi quan điểm của mình. Làm thế nào mà điều đó lại là một tội lỗi ?

Câu hỏi này áp dụng cho mọi tôn giáo coi việc không tin là lý do để bị đày xuống địa ngục hoặc một hình phạt tương tự. Tuy nhiên, tôi biết rằng người Kitô hữu có câu trả lời cho điều này. Họ cho rằng mọi người trên thế giới đều có tội và đáng chịu hình phạt vĩnh cửu. Một số người tin rằng chúng ta mang tội tổ tông, trong khi những người khác cho rằng mỗi cá nhân đều phạm tội riêng. Dù thế nào, tất cả chúng ta đều có tội, không ai đạt được tiêu chuẩn của Chúa, và tất cả đều đáng bị đày xuống địa ngục. Tuy nhiên, nếu chúng ta ăn năn, chấp nhận "Chúa" Jesus làm cứu chúa, tin vào Ngài và mở lòng đón nhận Ngài, thì mọi tội lỗi sẽ được tha thứ, và chúng ta sẽ được vào vương quốc thiên đàng. Vì vậy, theo quan điểm này, người vô thần không bị đày xuống địa ngục vì không tin, mà vì những tội lỗi khác của họ.

Nhưng đây là vấn đề của tôi: ngay cả khi chấp nhận ý tưởng rằng tất cả chúng ta đều có tội ( tôi không đồng ý), điều đó vẫn không giải quyết được vấn đề, mà chỉ đảo ngược nó.

Nếu bạn là một kẻ độc ác, làm mọi thứ để khiến cuộc sống của những người xung quanh tồi tệ hơn, tại sao bạn lại được tha thứ chỉ vì bạn tin vào một điều gì đó ? Logic ở đây là gì ? Theo tôi, nếu bạn có tội, thì bạn phải chịu trách nhiệm. Bạn không thể được tha bổng chỉ vì bạn là “bạn của quan tòa”. Bạn không thể được miễn tội chỉ vì quan tòa quyết định gửi con trai mình vào tù thay cho bạn. Đó không phải là công lý.

Hơn nữa, đối với tôi, việc tin vào Chúa là điều không thể. Tôi không cố tình bướng bỉnh nhưng tôithực sự không thể ép mình tin được. Nó giống như cố ép bản thân tin rằng bầu trời có màu xanh lá cây. Vì vậy, từ góc nhìn của tôi, Chúa đã thiết lập một hệ thống khiến tôi và nhiều người khác không thể được cứu rỗi. Điều đó không hề công bằng.

Ý tưởng rằng một đấng toàn năng sẽ trừng phạt bạn chỉ vì bạn không nhận ra sự tồn tại của Ngài, trong khi Ngài không cung cấp đủ bằng chứng, là hoàn toàn vô lý. Quan niệm này phản ánh cốt lõi của giáo điều Kitô giáo, và nó cho thấy rõ ràng rằng Kitô giáo không thể đứng vững trước sự nghi ngờ hợp lý.

https://www.facebook.com/share/v/19bNkcRqiK/

Chienslambao.blogspot.com





Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

SỰ THẬT VỀ KINH THÁNH ĐẠO CHÚA.

 ĐÂY LÀ LỜI CHÓ HAY LỜI CHÚA ???

CHÚA “TRÁNH THIỆN – CHÚA KI-TÔ, ĐẤNG “CỨU ĐỘ” ĐÃ PHÁ 3 KỶ LỤC LÀM CHẤN ĐỘNG THẾ GIỚI : 1- TRẢ THÙ NHIỀU NHẤT THÔNG QUA THỰC HIỆN, RA LỆNH HOẶC CHỈ ĐẠO 158 CUỘC THÁNH CHIẾN TRẢ THÙ VÔ CÙNG DÃ MAN TÀN BẠO; 2- TÀN SÁT 2.821.364 NHÂN MẠNG THEO CON SỐ CỤ THỂ TRONG THÁNH KINH; 3- TRẢ THÙ TÀN SÁT TRẺ EM KỂ CẢ NHỮNG THAI NHI CÒN TRONG BỤNG MẸ, NHIỀU NHẤT TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

1. “CHÚA TRỜI TRUYỀN LỆNH TRẢ THÙ CỰC KỲ TÀN BẠO: GIẾT - HIẾP - CƯỚP - PHÁ  -trong Kinh Cựu ước, Sách Dân số, chương 31, câu 15 đến 18: Ông Mô-sê nói với họ: Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? Chính bọn chúng đã nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với ĐỨC CHÚA trong vụ Pơ-o, nên tai họa đã giáng xuống cộng đồng của ĐỨC CHÚA. Vậy bây giờ, hãy giết hết các con trai, hãy giết tất cả các bé trai, cũng như giết mọi phụ nữ mất trinh, [GIẾT MỌI PHỤ NỮ MẤT TRINH] đã biết đến việc vợ chồng, đã ăn ở với đàn ông. Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở với đàn ông – là tất cả những cô gái còn trinh, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em.” 

2. “ĐỨC CHÚA CÓ PHẦN CHIA TỪ VỤ TRẢ THÙ -trong Sách Dân số, chương 31, câu 31 đến 35: Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê. Những tài sản đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã chiếm lấy, là 675.000 con chiên dê, 72.000 con bò bê, 61.000 con lừa, và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông, tất cả là 32.000 người. Và Đức Chúa có phần chia chiến lợi phẩm của phi vụ trả thù giết người vô cùng tàn nhẫn này, thể hiện ở câu 37 đến 40: thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 675 con chiên dê; 72 con bò bê, 61 con lừa; 32 cô gái còn trinh và 170 kg trang sức vàng bạc quý giá.”

3. “CHÚA TRỜI CẢNH BÁO ĐÀN ÔNG XUẤT TINH LÀ RẤT DƠ BẨN -trong Kinh Cựu ước, Sách Lê-vi, chương 15, câu 16-17: Khi một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến chiều. Chúa trời còn khuyến cáo phụ nữ quan hệ tình dục trong Kinh Cựu ước, Sách Lê-vi, chương 15, câu 18: Đức Chúa phán: Khi một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.” 

4. “Chúa trời có mối thâm thù với các anh pê-đê, bóng lộn,  gay, VÀ SẼ GIẾT KHÔNG THƯƠNG TIẾC NHỮNG NGƯỜI NÀY. Trong Kinh Cựu ước, Sách Lê-vi, chương 20, câu 13, Đức Chúa phán: Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.”

5. “CHÚA TRỜI BUỘC ĐÀN ÔNG XUẤT TINH PHẢI Ở NGOÀI TRẠI -trong Kinh Cựu ước, Đệ Nhị luật, chương 23, câu 10-12: Đức Chúa phán: Khi ra đóng quân đối diện với quân thù, anh em phải giữ mình khỏi mọi điều xấu. Khi ở giữa anh em có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh ban đêm, vì xuất tinh vào ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại.”

6. “CHÚA TRỜI KHUYẾN CÁO CÁCH LY 7 NGÀY VỚI CHỊ EM PHỤ NỮ CÓ KINH THÁNG -trong Kinh Cựu ước, Sách Lê-vi, chương 15, câu 19-23 Đức Chúa phán rằng: Khi một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy ngày vì có kinh, thì nó sẽ ra ô uế bảy ngày vì có kinh. Bất cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều. Mọi cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế. Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.” 

7. “CHÚA TRỜI SẼ GÂY TAI HỌA VÀ TRÉT PHÂN LÊN MẶT NGƯỜI NÀO KHÔNG VINH DANH THIÊN CHÚA -trong Kinh Cựu ước, Sách Ngôn sứ Ma-la-khi, chương 2, câu 2-3: Đức Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán - Ta sẽ khiến các ngươi mắc tai họa, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai họa. Phải, Ta biến phúc lành ấy thành tai họa, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả. Này, Ta hăm dọa dòng dõi các ngươi, Ta sẽ ném phân lên mặt các ngươi – phân trong các ngày mừng lễ của các ngươi -; người ta sẽ mang các ngươi đi cùng với phân ấy.” 

8. “ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG CHẤP NHẬN ANH TRAI NÀO BỊ DẬP TINH HOÀN HOẶC BỊ CẮT DƯƠNG VẬT, trong Kinh Cựu ước, Sách Đệ Nhị luật, chương 23, câu 2: Đức Chúa phán: Ai bị giập tinh hoàn hay bị cắt dương vật sẽ không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA.” 

9. “NHỮNG ĐỨA CON BẤT TRỊ, NGỖ NGHỊCH VỚI CHA MẸ THÌ PHẢI BỊ GIẾT NGAY - ĐÓ LÀ LUẬT CHÚA, trong Kinh Cựu ước, Sách Đệ Nhị luật, chương 21, câu 18-21: Đức Chúa phán ác: Khi có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó cũng chẳng chịu nghe, thì cha mẹ nó sẽ bắt lấy nó, đưa ra cửa thành cho các kỳ mục địa phương và sẽ nói với các kỳ mục trong thành: “Con chúng tôi đây ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời chúng tôi, nó rượu chè phóng đãng.” Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó chết và nó phải chết. Anh em phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em.” 

10. “PHÂN BÒ NƯỚNG BÁNH, trong Kinh thánh Cựu ước, Sách Ngôn sứ Ê-dê-ki-en, chương 4, câu 15 -Đức Chúa phán rằng : “Này, Ta cho phép ngươi lấy phân bò thay phân người và ngươi sẽ nướng bánh trên phân đó.” 

11. “KHẤN HỨA VỚI CHÚA ĐIỀU GÌ PHẢI LÀM NGAY VÌ CHÚA SẼ ĐÒI NHƯ ĐÒI NỢ -trong Kinh Cựu ước, Sách Đệ Nhị luật, chương 23, câu 22: Đức Chúa phán rằng “Khi anh em khấn hứa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, điều gì, thì đừng trì hoãn thi hành, vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ đòi anh em điều đó, và anh em sẽ mang tội”

12. “chúa trời giết ông ô-nan vì xuất tinh ngoài âm đạo, trong Kinh Cựu ước, Sách Sáng thế, chương 38, câu 8-10: mô tả rằng “Ông Giu-đa bảo Ô-nan: “Con hãy ăn ở với chị dâu con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người nối dõi. ” Ông Ô-nan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh trùng rơi xuống đất, để không cho anh cậu có người nối dõi. Hành động xuất tinh ngoài âm đạo của cậu không đẹp lòng ĐỨC CHÚA, nên Người cũng khiến cậu chết.” 

13. “CHÚA TRỜI RA LỆNH GIẾT CÔ DÂU MẤT TRINH - trong Kinh Cựu ước, Đệ Nhị luật, chương 22, câu 20-21: Đức Chúa phán ác như sau: Nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chỉ chứng tỏ cô còn trinh, thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình. Anh em phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em.” 

14. “Chúa trời kết liễu mạng sống kẻ nào dám mạo phạm thánh danh ngài – trong Kinh Cựu ước, Sách Lê-vi, chương 24, câu16, Đức Chúa độc ác phán : Ai nói phạm đến danh ĐỨC CHÚA, sẽ bị xử tử: toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó; dù là ngoại kiều hay người bản xứ, nếu nói phạm đến thánh danh, sẽ bị xử tử.” 

15. Chúa trời giáng bệnh u ác tính giết người, trong Samuel 1, chương 5, câu 6 & câu 11-12: mô tả rằng Bàn tay ĐỨC CHÚA đè nặng trên người Át-đốt, Người làm cho chúng phải điêu linh, và mắc những khối u, tại Át-đốt và trong lãnh thổ. Chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến. Chúng nói: “Các ông hãy trả lại Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en; Hòm Bia phải trở về chỗ cũ, để Hòm Bia đừng giết chúng tôi và dân chúng tôi!” Thật vậy, trong toàn thành, người ta hoảng sợ trước cái chết, vì bàn tay Thiên Chúa giáng rất mạnh xuống trên đó. Những người không chết thì bị mắc những khối u, và tiếng kêu của thành đã thấu tới trời.” 

16. Chúa trời hô biến nước sông thành máu để trả thù người ai-cập -trong kinh Cựu ước, Xuất Ai-cập, chương 7, câu 19-21, -ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm lấy gậy của anh và giơ tay trên mặt nước của Ai-cập, trên các sông ngòi, kinh rạch, hồ ao của nó, trên tất cả những chỗ có nước, và nước sẽ hóa thành máu; trong cả nước Ai-cập chỗ nào cũng có máu, trong thùng gỗ cũng như vại đá.” Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến thành máu. Cá dưới sông bị chết, xông ra hôi thối, và người Ai-cập không thể uống nước sông được nữa; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có máu.” 

17. “Chúa trời ra lệnh giết bất cứ ai nếu họ rủ rê phụng thờ thần khác trong Kinh thánh Đệ Nhị luật, chương 13, câu 7 đến câu 11: Đức Chúa trời phán rằng: Nếu người anh em của anh em, con của mẹ anh em, hoặc con trai con gái anh em, hoặc người vợ anh em âu yếm, hoặc người bạn anh em coi như chính mình, lén lút rủ rê anh em: “Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác” những thần mà anh em và cha ông anh em không biết,

trong số các thần của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh em, từ đầu đến cuối xứ, thì anh em đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che nó; trái lại, nhất định anh em phải giết nó. Anh em phải là người đầu tiên ra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. Anh em phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách lôi cuốn anh em xa ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.”

18. “Đức Chúa ra lệnh trả thù giết sạch đàn ông, đàn bà kể cả trẻ con đang bú và bò, chiên dê, lạc đà… trong Sách 1, Samuel, chương 15, câu 2-3: Thánh chiến chống người A-ma-lếch, Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Ta sắp hạch tội A-ma-lếch về cách nó đã đối xử với Ít-ra-en khi chặn đường Ít-ra-en đang từ Ai-cập lên.  

Giờ đây, ngươi hãy đi đánh A-ma-lếch. Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết, ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa.” 

19. “Chúa Trời cho phép cha ruột hiếp dâm con gái - trong Kinh Thánh Tân ước, 01 Cô-rin-tô, chương 7, câu 36-38:  Nếu ai đang lúc quá dồi dào khí lực mà nghĩ rằng mình khó có thể tôn trọng CON GÁI của mình và cho rằng chuyện thường tình sẽ phải xảy ra, thì người ấy cứ làm như ý mình muốn, họ không mắc tội đâu: họ cứ việc lấy nhau. Chúa cho phép cha con loạn luân. 

Còn ai đứng vững, lòng không nao núng, cũng chẳng miễn cưỡng, lại làm chủ được ý chí của mình, và quyết tâm tôn trọng trinh tiết của CON GÁI mình, thì người ấy làm một việc tốt. Như thế, ai cưới CON GÁI của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn." Cha loạn luân con gái là một việc làm tốt. Do đó, các giáo hoàng loạn luân là điều không thể tránh khỏi vì bản chất loạn luân rồi đã xuất phát từ kinh thánh Ki-tô giáo.” 

http://www.bible-en-ligne.net/bible,46N-7,1-corinthiens.php

---------------

BIBLE-EN-LIGNE.NET

LA BIBLE - Nouveau Testament :: Les Epîtres de Paul :: 1 Corinthiens :: chapitre 7

20. “ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong Kinh Cựu ước, sách Lê-vi, chương 21, câu 9:  - Nếu con gái của một tư tế làm nhục chính mình mà đi làm điếm, thì nó làm nhục chính cha nó; nó phải bị bỏ vào lửa mà thiêu.”

21. Hiếp dâm hội đồng và chặt xác người ra nhiều mảnh đã có từ kinh thánh lời chúa, trong kinh Cựu ước, Sách Thủ lãnh, chương 19, câu 22 đến 30, mô tả cảnh chủ nhà và khách đang ăn uống vui vẻ, những kẻ vô lại trong thành bao vây nhà và yêu cầu đưa khách là người đàn ông Lê-vi ra để bọn chúng quan hệ tình dục. Cụ chủ nhà van xin họ không làm điều bỉ ổi với khách và đề nghị đưa con gái trinh của mình và người tỳ thiếp của người khách ra thay. Tuy nhiên, họ không nghe, và người khách đành phải đưa tỳ thiếp của mình cho đám người ấy. Họ cưỡng hiếp nàng suốt đêm đến sáng mới buông tha. Gần sáng, người tỳ thiếp trở về và ngất ngay trước cửa. Sáng ra, chồng nàng thấy nàng nằm bên ngưỡng cửa, không trả lời, nên đưa xác nàng về nhà. Về tới nơi, chàng chặt nàng thành mười hai phần, gửi đi khắp Ít-ra-en. Người dân kinh hoàng, nói rằng chưa từng thấy điều gì khủng khiếp như vậy, và kêu gọi suy nghĩ, bàn luận.

22. ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: kinh Cựu ước, sách Lê-vi, chương 21, câu 16-21, rằng “Hãy nói với A-ha-ron: Qua các thế hệ, người đàn ông nào trong dòng dõi ngươi có tật, thì không được lại gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên chúa của nó. Thật vậy, bất cứ người nào có tật không được lại gần: người đui mù, què quặt, dị tướng, dị hình, người bị gãy chân gãy tay, gù, còi, bị đốm ở mắt, ghẻ, hắc lào, hay bị giập tinh hoàn. Bất cứ người đàn ông nào trong dòng dõi tư tế A-ha-ron có tật, thì không được đến gần để tiến dâng các lễ hỏa tế lên ĐỨC CHÚA; nó có tật, nó không được đến gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó.”


LỜI CỦA CHÓ TÌM KHÔNG KHÓ VÌ CÓ Ở ĐÂY:

HTTPS://TINYURL.COM/45UWYDMF 

HTTPS://TINYURL.COM/2V3SM9HT

HTTPS://TINYURL.COM/3A4HBRC8

Chienslambao.blogspot.com






HÌNH PHẠT NGƯỜI BỊ ĐÓNG ĐINH THÌ KHÔNG ĐƯỢC ĐÓNG KHỐ

 HÌNH PHẠT ĐÓNG ĐINH CỦA LA MÃ.

*Đế chế La Mã, có một số phương pháp tra tấn đáng sợ, nhưng một trong những sợ hãi nhất có lẽ là đóng đinh.

Đóng đinh là một hình thức trừng phạt đặc biệt tàn nhẫn và nhục nhã dành riêng cho nô lệ, nổi loạn và tội phạm thấp. Dưới đây là một số điều giải thích lý do tại sao phương pháp này lại đáng sợ đến vậy:

1. Nỗi đau tột cùng: Các nạn nhân bị đóng đinh vào cây thập giá gỗ, gây ra cơn đau dữ dội và kéo dài. Đinh sắt xuyên qua cổ tay và bàn chân, gây ra sự đau đớn cùng cực.

2. Cái chết chậm: Việc đóng đinh dẫn đến cái chết chậm và đau đớn có thể kéo dài vài giờ, thậm chí vài ngày. Các nạn nhân thường chết vì nghẹt thở, kiệt sức, mất nước hoặc sốc giảm giảm mạch.

3. Phơi lộ nơi công cộng: Đóng đinh thường được tổ chức ở những nơi công cộng, cho phép mỗi người thấy được nỗi khổ của những người bị án. Đó là để ngăn chặn những người khác phạm phải những tội ác tương tự.

4. Sự nhục nhã: Những người bị đóng đinh thường trần truồng, phơi bày với các yếu tố và ánh nhìn của người qua đường, tăng thêm nhiều nhục nhã của họ.

5. Thiếu phẩm giá: Không giống như các hình thức hành hình khác, việc đóng đinh không để lại phẩm giá cho nạn nhân, củng cố nỗi sợ hãi và xấu hổ liên quan đến hình phạt đó.

Tóm lại, việc đóng đinh đặc biệt đáng sợ bởi sự kết hợp giữa nỗi đau mãnh liệt, tiếp xúc công cộng, sự nhục nhã và thiếu phẩm giá, khiến nó trở thành một phương pháp tra tấn đáng sợ trong Đế chế La Mã.

- Cang Huỳnh lược dịch từ Le Saviez-Vous.



CÓ NÊN TIN SỐ PHẬN DO TRỜI ĐỊNH?

 Mỗi con người khi trải qua cuộc đời, họ có những định mệnh riêng.  Ví dụ ông A lên máy bay vào ngày đó, giờ đó và chết vì sự cố máy bay. Nế...